Công ty Phân lân nung chảy Văn Điển

Cuối dòng Mekong long đong muà hạn (Kỳ cuối)

20:13 07/03/2020 GMT+7
Kỳ cuối:  Phát triển kinh tế Đồng bằng sông Cửu Long theo hướng “thuận thiên” Để tồn tại và phát triển, người dân ở nơi đây đã và đang điều chỉnh thói quen sản xuất theo tinh thần Nghị quyết 120 NQ-CP về phát triển ĐBSCL bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu

Kỳ cuối:  Phát triển kinh tế Đồng bằng sông Cửu Long theo hướng “thuận thiên”

Để tồn tại và phát triển, người dân ở nơi đây đã và đang điều chỉnh thói quen sản xuất theo tinh thần Nghị quyết 120 NQ-CP về phát triển ĐBSCL bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu mà Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã ký ngày 17/11/2017.

Mực nước trên Kênh Vĩnh Tế sáng 06/03/2020 đang xuống thấp so với mọi năm. Mặc dù Trung Quốc tuyên bố đã tăng lượng nước xả đập Cảnh Hồng từ đầu tháng trước, nhưng đến nay nước Mekong hâu như chưa về tới ĐBSCL.

“Thuận thiên giả tồn, nghịch thiên giả vong”, câu nói của Khổng Tử có ý: “Kẻ nào thuận theo thiên nhiên thì sống, kẻ nào đi trái ngược lại thì chết” từ ngàn xưa đang ứng nghiệm với cuộc sống người dân ĐBSCL như hiện nay. Nhất là trong bối cảnh tác nhân từ thượng nguồn Trung Quốc đang chặn nước, làm hạ nguồn Mekong ngày thêm cạn kiệt cộng với biến đổi khí hậu đang diễn ra khốc liệt, đã khiến vùng ĐBSCL đang ngày càng có xu hướng vận động theo hướng tiêu cực.

Sống chung với hạn

Mô hình trang trại hữu cơ mi ni tiết kiệm nước của chị em Võ Hồng Thắm, Võ Hồng Loan ở xã Long Hòa, Thị Xã Gò Công tỉnh Tiền Giang thu nhập 200 triệu đồng/năm. Nguồn nước trữ để sinh hoạt, tưới cho trang trại Sala Farm được cung cấp bởi ao trữ nước. Xung quanh, rất nhiều hộ dân đang trong tình trạng không có nước sinh hoạt.

Dù hạn mặn 2020 đang diễn ra gay gắt khốc liệt khiến bao người nông dân ĐBSCL khổ sở điêu đứng. Thế nhưng, nhiều nơi vẫn áp dụng cách làm “cổ xưa pha hiện đại”, vẫn có thể sản xuất canh tác trong mùa hạn mặn. Đó là đào ao trữ nước mùa khô. Thuở khẩn hoang khai phá, người Nam bộ thường đào ao đìa lấy đất đắp nền, cất nhà, lập vườn. Nên thường có ao đìa xung quanh nơi ở. Thói quen đó hiện đang dần mất đi khi ở các vùng ngọt hóa, người dân đã có nước ngọt quanh năm nên chủ quan lấp các ao đìa lấy đất sản xuất. Bởi vậy, khi hạn đến nhanh, đa số người dân vùng ngọt hóa không có nước sinh hoạt, sản xuất. Nhưng cũng chính tại những vùng khô hạn này, nhiêu hộ dân đã đào ao trữ nước từ trước. Nên trong đợt hạn 2020, vẫn đủ nước canh tác hoa màu và sinh hoạt cho gai đình mình.

Đến nông trại SalaFarm của hai chị em Võ Hồng Thắm, Võ Hồng Loan ở  đường Võ Văn Kiết, ấp Giồng Kép, xã Long Hòa, Thị xã Gò Công mới thấy rõ sự kỳ diệu của kinh nghiệm người đi trước. Lập nghiệp từ mảnh đất gia đình rộng chừng 4.000m2, 3,000m2 hai chị em lên liếp che chắn trồng các loại rau màu hữu cơ. 1.000m2 còn lại dành để đào ao sâu trữ nước. Lắp hẳn một hệ thống phun tưới tự động, tiết kiệm nước khép kín đấu nối với các ao và bồn lọc than hoạt tính dùng cho sinh hoạt. Cứ thế, đã qua mấy mùa hạn, nông trại hữu cơ mini này đã không cần dùng nước dưới kênh.

Hôm 03/3/2020 chúng tôi đến thăm, mặc dù con kênh 14 dài hơn chục kilômet trước nhà đã cạn sạch, các vườn hoa màu của bà con xung quanh khô héo vì không nước tưới, trang trại Sala Farm của hai chị em vẫn xanh tươi cung cấp sản phẩm hữu cơ cho bà con trong vùng và tận TP.Mỹ Tho. Hai chị em cho hay, dù hạn đang gay gắt nhưng với nguồn nước dồi dào có thể sử dụng đến hết tháng 5, Sala Faram vẫn  thu nhập mỗi ngày 400.000-600.000đồng từ thu hoạch các sản phẩm.

Anh Đinh Văn Phúc, ấp Minh Hà A, xã Khánh Bình Đông, huyện Trần Văn Thời đào ao trữ nước cho mùa hạn. Nhiêu năm qua, mặc dù hạn mặn kênh rạch xung quanh đều khô cạn, nhưng 4 ha bí của gia đình anh vẫn trúng màu. Trước đó, vụ 1 và 2 anh đã thành công bằng giống lúa chất lượng cao.

Tại huyện Trần Văn Thời Cà Mau, nơi đang có hơn 1.000 điểm sụt lún do hầu hết các con kênh rạch ở đây cạn nước, nhiều nơi ruộng lúa chết khô, hoa màu úa tàn. Nhưng đến nhà anh Cao Kiến Thi, 59 tuổi ở ấp 8 xã Khánh Bình Đông, huyện Trần Văn Thời (Cà Mau) thì lại khác. Hơn 4ha bí của anh đang phát triển tốt do đủ nước tưới. Nguồn nước từ mấy cái ao xung quanh nhà được đào sâu trước đó để thả cá. Mỗi khi tưới, anh chỉ cần bật hệ thống phun tưới tiết kiệm tự động, ruộng bí của anh luôn đủ nước dù hạn gay gắt. Năm nay hạn nặng, dịch Covid-19 hoành hành khiến giá bí thấp hơn mọi năm, nhưng tầm giá này anh cũng kiếm được không dưới 100 triệu đồng

Tại huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu, anh Lê Thanh Tuấn, Chủ tịch UBND xã Vĩnh Hưng cho hay, Vĩnh Hưng là vùng đặc trưng đất sét thịt, nắng lên khô nẻ, mưa lớn ngập úng nên chỉ trồng cây lúa. Nhưng cứ tháng 11 đến tháng 3 hạn làm ruộng khô cạn, nước dưới sông trơ đáy, chưa kể nước mặn ập vô, bà con cực lắm. Mấy năm nay bà con cứ mê chương trình trồng lúa “tưới nước tiết kiệm, ngập khô xen kẽ” của GIZ (Tổ chức hợp tác phát triển của Đức) hỗ trợ kỹ thuật. Lượng nước phải sử dụng rất ít nhưng hiệu quả cao do tiết kiệm được thấp nhất về nhân công, giống, phân, nước tưới. “Trước đây, chi phí trồng lúa từ 22 – 23 triệu đồng/ha. Từ khi áp dụng mô hình tưới ướt khô xen kẽ thì chỉ còn khoảng 17 triệu đồng/ha. Năng suất lúa từ  6 – 7 tấn/ha tăng lên 10 tấn/ha, lợi nhuận tăng thêm hơn 5 triệu đồng/ha” . Ông Nguyễn Hoàng Hương, lão nông 73 tuổi ở đây chia sẻ.

Một hộ dân ở vùng ngọt hóa đang bị khô hạn nặng ở ấp 8 xã Trần Hợi Trần Văn Thời Cà Mau đang tưới hoa màu đang vụ thu hoạch từ nguồn nước trữ dưới ao. Lượng nước này đủ tưới cho hoa màu của gia đình đến tháng 6.2020.

Một công rẩy bằng bảy công lúa

Để đối phó hạn mặn thường rơi vào vụ 3 giáp Tết, nhiều nơi bà con thay vì xuống giống đã chuyển sang cải tạo đất trồng màu ở vụ 3. Khi vào mùa mưa lại chuyển sang trồng lúa. Những năm gần đây mô hình đưa màu xuống ruộng không chỉ giúp người dân tăng thêm thu nhập, còn đa dạng hóa các mô hình sản xuất tăng thêm số lượng sản phẩm hàng hóa đáp ứng cho nhu cầu tiêu thụ của thị trường. Cách canh tác mới này nhằm tăng thu nhập, nhưng hóa ra lại hiệu quả khi  đối phó với thiên nhiên khí hậu đang biến đổi tiêu cực hiện nay. Ông Quách Vĩnh Phương, Chủ tịch Hội Nông dân xã Trần Hợi, huyện Trần Văn Thời cho biết, cây hoa màu lúc nào cũng mang lại lợi nhuận cao hơn nhiều so với cây lúa.

Anh Đinh Văn Phúc, ấp Minh Hà A, xã Khánh Bình Đông, huyện Trần Văn Thời cho biết, ấp của anh có 224 hộ với 936 khẩu có diện 198 ha đều trồng xen vụ 2 lúa-1 màu. Là vùng ngọt hóa trồng có thể trồng lúa 03 vụ, nhưng anh và bà con ở đây chuyển sang trồng màu ở vụ 3 vì đây là thời điểm khô hạn ít nước, đất gò phù hợp với các loại rau, bí, bầu, mướp. Hai mùa đầu bà con trồng lúa M18 và 5451 có chất lượng năng suất cao, nhưng không lãi nhiều. Kết quả vụ 3 của bà con mới là nguồn thu nhập chính của cả năm bởi hiệu quả của trồng màu cao  hơn trồng lúa. Mỗi vụ lúa trừ hết chi phí, công lao động thu nhập chỉ còn khoảng 5 – 6 triệu đồng/ha, nhưng riêng vụ màu lợi nhuận có thể lên tới 20 triệu đồng/ha. Bà con ở ấp anh bình quân mỗi năm, gia đình có thu nhập không dưới 120 triệu đồng/ha, nếu so với việc trồng lúa, thu nhập từ mô hình này cao hơn gấp 3-4 lần. Chỉ cho chúng tôi thấy  ruộng bí đang xanh mơn mởn giữa mùa hạn, anh vừa hào hứng  chia sẻ “ông bà mình nói đúng đó chú, một công rẩy bằng bảy công lúa.”

Ông Nguyễn Hoàng Hương ở ấp Vĩnh Hưng, Vĩnh Lợi, Bạc Liêu đang trao đổi kinh nghiệm thành công trồng lúa tiết kiệm nước.

Còn ở Vĩnh Thuận, hàng năm vào mùa khô, sau khi thu hoạch lúa Đông Xuân, nông dân tại Vĩnh Thuận chọn đất gò cao, dẫn nước và xuống giống dưa lê theo mô hình sản xuất vụ lúa – vụ màu.

Anh Phạm Hùng Em, ấp Bình Minh, xã Vĩnh Bình Bắc, huyện Vĩnh Thuận tỉnh  Kiên Giang cho hay, đây là vùng đất gò thích hợp hai vụ lúa-một vụ màu. Vì vậy vào dịp gần Tết cùng lúc mùa khô hạn mặn xâm thực, anh cùng bà con ấp Bình Minh cải tạo đất ruộng trồng dưa Hoàng Kim. Hết vụ dưa, mưa xuống lại tiếp tục trồng lúa. Chỉ với  4 công (0,4ha) dưa lê, trừ chi phí lợi nhuận năm nay trên 100 triệu đồng.

Anh nói: “Dưa lê trúng mùa nhờ mùa khô kéo dài, không có mưa trái mùa nên dưa phát triển tốt, ít sâu bệnh gây hại, năng suất 35 – 40 tấn/ha. Dưa lại được giá, thương lái mua tại ruộng 5.000 – 8.000 đồng/kg”

Nhà nước chủ trương, chuyên gia ủng hộ

PGS.TS Lê Anh Tuấn, Phó Viện trưởng Viện nghiên cứu biến đổi khí hậu Đại học Cần Thơ khẳng định: Nghị quyết 120 của Chính phủ chủ trương phát triển kinh tế ĐBSCL theo hướng thuận thiên là hoàn toàn phù hợp trong tình hình biến đổi khí hậu hiện nay đang diễn ra gay gắt. Theo đó, ở các vùng ngọt hóa không nhất thiết phải trồng cây lúa 2-3 vụ vì áp lực an ninh lương thực hiện nay của nước ta đã không còn nặng như nhưng năm trước. Mà ngược lại, trồng lúa nhiều vụ còn làm cho đất nhanh chóng già cỗi, hao phí lượng nước buộc phải sử dụng khi 1 kg lúa phải hao tốn 300 lit nước. Do đó, chuyển đổi từ lúa 3 vụ/năm sang 1 vụ lúa-2 vụ màu, 01 vụ lúa chất lượng cao, hay 3 vụ màu sẽ làm giảm rất lớn áp lực sử dụng nước ngọt. Nhưng mặt khác lại tăng thu nhập đáng kể cho người nông dân, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế cả vùng ĐBSCL.

Dưa Hoàng Kim nổi tiếng được trồng ở ấp Bình Minh, xã Vĩnh Bình Bắc, huyện Vĩnh Thuận tỉnh Kiên Giang. Bà con nơi đây từ lâu đã áp dụng mô hình sản xuất 2 vụ lúa một vụ màu rất thành công.

Đồng tình với phương án trên, GS.Tăng Đức Thắng, nguyên Phó viện trưởng Viện Khoa học Thuỷ lợi Việt Nam cho rằng phương thức canh tác hợp lý là chuyển trồng lúa ở vùng ngọt sang mô hình tôm-lúa, hoặc 1 lúa 1 màu. Tính thêm các cách thức khoa học trong việc trữ nước mưa cung cấp cho người dân vùng ngọt đảm bảo sinh hoạt sản xuất cho mùa khô.

Theo PGS.TS Lê Anh Tuấn, những năm gần đây Trung Quốc gia tăng việc xây đập thượng nguồn Mekong, nên việc chủ động tích nước cho ĐBSCL vào mùa khô cần phải tính toán kỹ. Trước mắt, bà con nông dân nên thực hiện theo phương pháp truyền thống đó là đào ao tích nước như nhiều năm trước. Gần đây nhất, tại Hậu Giang đã xuất hiện mô hình túi chứa nước ngọt bằng vật liệu chống thấm. Đây là một mô hình hiệu quả cao cho bà con khi giá thành rẻ, không chiếm nhiều diện tích sử dụng nhưng vẫn đảm bảo nước sinh hoạt-canh tác vào mùa khô.

Trước những khó khăn trong đợt hạn hán năm nay, nhiều địa phương như Cà Mau, Bạc Liêu, Kiên Giang, Sóc Trăng … đã có nhiều biện pháp quyết liệt để giúp dân vượt qua cơn hạn hán 2020. Nhưng về chiến lược lâu dài, các tỉnh trên đều đang tính toán và thực hiện dần chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi.

Ông Lê Văn Sử, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Cà Mau cho rằng vấn đề cung cấp nước phục vụ sinh hoạt và sản xuất, phụ thuộc rất lớn đến quy hoạch vùng. Ở góc độ địa phương, Cà Mau sẽ lưu ý điều chỉnh trong việc khai thác, điều tiết nước ngọt một cách hợp lý, trong đó có việc trữ nước mưa vào mùa mưa sử dụng cho mùa hạn hán.

 

Bài, ảnh: Hoàng Quân

Chủ trương và định hướng chiến lược phát triển Đồng bằng sông Cửu Long theo tinh thần Nghị quyết 120 NQ/CP về phát triển Đồng bằng sông Cửu Long bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu mà Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã ký ngày 17/11/2017 đã chỉ rõ:

Xác định biến đổi khí hậu và nước biển dâng là xu thế tất yếu, phải sống chung và thích nghi, phải biến thách thức thành cơ hội. Lấy tài nguyên nước là yếu tố cốt lõi, là cơ sở cho việc hoạch định chiến lược, chính sách, quy hoạch phát triển vùng, cần phải được quản lý tổng hợp trên toàn lưu vực. Bên cạnh tài nguyên nước ngọt, cần coi nước lợ, nước mặn cũng là nguồn tài nguyên thiên nhiên để phát triển kinh tế. Tăng cường quản lý và sử dụng hiệu quả tiết kiệm và bền vững tài nguyên nước, đất đai và các tài nguyên khác trong vùng. Chú trọng phát triển vùng duyên hải, vùng đặc quyền kinh tế và vị trí địa chính trị của đồng bằng. Đồng thời, chú trọng việc giảm nhẹ thiệt hại do thiên tai, ứng phó với các kịch bản bất lợi nhất có thể xảy ra.

Việc chuyển đổi mô hình phát triển phải dựa trên hệ sinh thái, đảm bảo phù hợp với điều kiện tự nhiên, đa dạng sinh học, văn hóa, con người và các quy luật tự nhiên; kết hợp giữa công nghệ tiên tiến, hiện đại với tri thức, kinh nghiệm truyền thống, đảm bảo tính ổn định và sinh kế của người dân, trong đó người dân và doanh nghiệp đóng vai trò trung tâm, Nhà nước đóng vai trò định hướng, dẫn dắt; thúc đẩy đổi mới, sáng tạo và hỗ trợ khởi nghiệp, đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ, nhất là thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ Tư. Quá trình chuyển đổi cần có tầm nhìn dài hạn, ưu tiên cho thích ứng với biến đổi khí hậu nhưng cũng phải tận dụng các cơ hội để phát triển kinh tế các-bon thấp, kinh tế xanh, bảo vệ hệ sinh thái tự nhiên.