Công ty Phân lân nung chảy Văn Điển

Nâng cao chất lượng đào tạo nghề nông nghiệp cho lao động nông thôn

(Tapchinongthonmoi.vn) - Để đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững nền nông nghiệp nước ta, cần chú trọng hơn nữa việc phát triển, nâng cao chất lượng đội ngũ lao động nông nghiệp. Thực tế thời gian qua cho thấy có sự suy giảm cả về số lượng và tỷ trọng trong tổng lực lượng xã hội và đặc biệt chất lượng đội ngũ lao động nông nghiệp chưa đáp ứng yêu cầu.

Do đó, trong thời gian tới cần chú trọng các giải pháp sau để phát triển đội ngũ lao động nông nghiệp chuyên nghiệp, góp phần thúc đẩy một nền nông nghiệp bền vững:  Một là, chính thức hoá việc coi trọng vị thế của nghề nông nghiệp để thu hút người học nghề nông nghiệp. Hai là, cần tái cơ cấu một cách căn bản hệ thống các cơ sở đào tạo nghề nông nghiệp trên cơ sở hoàn thiện các chương trình đào tạo sát với nhu cầu thị trường. Ba là, cần đẩy mạnh xã hội hoá trong việc đào tạo nâng cao chất lượng cho lao động nông nghiệp.

Khai giảng lớp đào tạo nghề trồng cây ăn quả cho nhân dân Bản Thẳm - xã Bản Hon (Tam Đường, Lai Châu). Ảnh: H.C

Đặt vấn đề

Nông nghiệp, kinh tế nông thôn và nông dân vẫn luôn được xác định là trụ cột của nền kinh tế nước ta. Trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, Việt Nam đã từng bước khẳng định vị thế của mình trên thị trường quốc tế nhờ vào thế mạnh hàng nông sản. Việt Nam lọt vào nhóm 10 nước có giá trị kim ngạch xuất khẩu nông sản lớn nhất trên thế giới và xếp thứ 4 trong khu vực Đông Nam Á (OECD & FAO, 2023). Việt Nam đã trở thành một trong những nước xuất khẩu nông - lâm - thủy sản hàng đầu thế giới. Năm 2020, tổng kim ngạch xuất khẩu toàn ngành đạt 41,53 tỷ USD, gấp 85 lần so với tổng kim ngạch xuất khẩu toàn ngành năm 1986 bất chấp đại dịch Covid-19 bùng phát trên thế giới. Đáng chú ý, trong năm 2022, kim ngạch xuất khẩu đạt mức cao kỷ lục trên 53,22 tỷ USD, trong đó, có 11 nhóm mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, 8 mặt hàng có kim ngạch trên 2 tỷ USD, 7 mặt hàng trên 3 tỷ USD (gỗ và sản phẩm gỗ; tôm; rau quả; hạt điều; gạo, cao su, cà-phê) (Tổng cục thống kê, 2023). 

Để đạt được thành tựu trên, có sự đóng góp không nhỏ của lực lượng lao động làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp và ở khu vực nông thôn. Theo Tổng cục Thống kê, năm 2023, lực lượng lao động ở khu vực nông thôn là 32,9 triệu người, chiếm 62,7%. Lao động có việc làm năm 2023 đạt 51,3 triệu người, lao động ở khu vực nông thôn có việc làm là 32,3 triệu người. Số lao động có việc làm khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản là 13,8 triệu người chiếm 42,7% tổng số lao động có việc làm ở khu vực nông thôn. Tuy nhiên, về trình độ, thì hiện tại năm 2023, lực lượng lao động đã qua đào tạo có bằng, chứng chỉ ước tính là 14,1 triệu người, chiếm 27,0% (Tổng cục Thống kê, 2024). Tỷ lệ này đã tăng 0,6 điểm phần trăm so với năm 2022 nhưng vẫn còn thấp so với mục tiêu đề ra. Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo ở khu vực nông thôn thường thấp hơn so với tỷ lệ đã qua đào tạo ở khu vực thành thị (Tổng Cục Thống kê, 2022).

Trong những năm qua, các chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước về đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho lao động nông thôn đã liên tục được ban hành và hoàn thiện. Điển hình nhất là Quyết định số 1956/QĐ-TTg ngày 27-11-2009 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020”. Và tiếp theo đó là Quyết định số 3685/QĐ-BNN-KTHT của Bộ trưởng Bộ NN&PTNT về việc phê duyệt kế hoạch “Đào tạo nghề nông nghiệp cho lao động nông thôn giai đoạn 2022-2025” (Quyết Định Số 3685/QĐ-BNN-KTHT Của Bộ trưởng Bộ NN&PTNT về việc phê duyệt kế hoạch “Đào tạo nghề nông nghiệp cho lao động nông thôn giai đoạn 2022-2025”. Công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn ở nước ta hiện nay đã có sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị và các tổ chức, doanh nghiệp, xây dựng được nội dung, chương trình, kế hoạch tổ chức thực hiện rõ ràng.

Tuy nhiên, trong số các chương trình đào tạo nghề cho lao động nông thôn thì các chương trình, dự án về đào tạo nghề nông nghiệp còn chưa đạt mục tiêu đề ra. Đặc biệt, nền nông nghiệp nước ta đang đứng trước nhiều cơ hội, thách thức do toàn cầu hoá, chuyển đổi số và thích ứng với biến đổi khí hậu mang lại.

Do vậy, cần thiết phải đánh giá lại các chương trình đào tạo nghề nông nghiệp cho người lao động nông thôn, đề xuất các giải pháp nâng cao hơn nữa chất lượng đào tạo nghề để tiến tới xây dựng đội ngũ “nông dân văn minh” - “nông dân chuyên nghiệp”.

Hình 1: Tăng/giảm tỷ trọng lao động có việc làm trong các ngành kinh tế, giai đoạn 2020-2023 (Điểm phần trăm). Nguồn: (Tổng cục Thống kê, 2024)

Thực trạng đội ngũ lao động nông nghiệp

Theo Tổng cục Thống kê, lao động nông nghiệp ở nước ta đã giảm cả về số lượng và tỷ trọng trong tổng lực lượng lao động xã hội. Năm 2006, tỷ lệ lao động nông nghiệp chiếm hơn 70% tổng lực lượng lao động. Năm 2011, có khoảng 24,36 triệu lao động nông nghiệp (chiếm 48,4% tổng số lực lượng lao động), đến năm 2020 số lao động này giảm xuống còn 17,5 triệu người (chiếm 32,8% tổng số lực lượng lao động) và đến năm 2023 chỉ còn 13,8 triệu người (chiếm 26,3% tổng số lực lượng lao động). Tốc độ lao động rút ra khỏi khu vực nông nghiệp để chuyển sang các ngành phi nông nghiệp diễn ra nhanh hơn trong những năm gần đây (Hình 1). Giai đoạn 2011-2015 trung bình mỗi năm số lượng lao động nông nghiệp giảm khoảng 306 nghìn người/năm, giai đoạn 2015-2020 số lượng giảm trung bình là 1,12 triệu người/năm (Bộ NN&PTNT, 2021). 

Bên cạnh đó, có thể thấy một xu hướng mới xuất hiện ở khu vực nông thôn đó là tỷ lệ lao động làm công/làm thuê để hưởng tiền công/tiền lương gia tăng, trong khi đó tỷ lệ lao động tự làm thì lại có xu hướng giảm. Trong hai xu hướng chính đó, chia theo lĩnh vực kinh tế thì tỷ lệ lao động làm việc phi nông nghiệp (bao gồm cả làm công và tự làm đều có xu hướng tăng) trong khi đó việc làm ở khu vực nông nghiệp đều có xu hướng giảm (Hình 2). Điều này cho thấy một xu hướng là việc làm trong lĩnh vực nông nghiệp sẽ giảm trong thời gian tới. Đây là một thách thức đối với các lao động nông nghiệp ở nước ta.

Hình 2: Tỷ lệ lao động có việc làm theo tính chất việc làm. Nguồn: (Tổng cục Thống kê, 2021b)

Nguyên nhân của xu hướng tỷ trọng việc làm trong lĩnh vực nông nghiệp có thể chỉ ra một số nguyên nhân chủ yếu như sau:

Một là, thực tế cho thấy thu nhập của người lao động trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn vẫn ở mức thấp và có sự chênh lệch đáng kể giữa thu nhập từ các hoạt động tự tạo với thu nhập từ đi làm thuê ở lĩnh vực phi nông nghiệp (ILO, 2021). Điều này là do năng suất lao động của ngành Nông nghiệp giảm, trong khi năng suất lao động của các ngành khác có tốc độ tăng cao hơn do tác động của khoa học công nghệ. Điều này làm cho động lực và nhu cầu tìm việc làm ở lĩnh vực nông nghiệp của lao động nông thôn ngày càng giảm.

Thứ hai, các đơn vị sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam chủ yếu là hộ gia đình, chiếm đến 99,8% (Tổng cục Thống kê, 2021a). Quy mô trang trại gia đình vẫn còn nhỏ và việc phân bổ đất đai thay đổi rất ít trong hơn hai thập kỷ chuyển đổi nông thôn nhanh chóng nên khó khăn trong việc mở rộng quy mô sản xuất và sử dụng thêm lao động nông nghiệp. 

Thứ ba, cơ giới hóa - chủ yếu thông qua thị trường cho thuê máy móc nông nghiệp với chi phí có thể chấp nhận được, đã phần nào làm giảm nhu cầu sử dụng lao động của các hộ nông dân cho các hoạt động sử dụng lao động thủ công như trước đây (Liu et al., 2020).

Thứ tư, lao động nông thôn đang bị già hoá, lao động từ 40 tuổi trở lên chiếm 48,8% (Tổng cục thống kê, 2021). 

Thực tế trên cho thấy, xu hướng việc làm cho lao động nông nghiệp thời gian tới sẽ có nhiều thách thức. Tuy nhiên, với vị trí và vai trò quan trọng của ngành nông nghiệp, không thể không phát triển đội ngũ lao động nông nghiệp chuyên nghiệp, thực sự cọi nghề nông nghiệp là một nghề chính thức, chứ không phải chỉ coi nghề nông nghiệp là lựa chọn sinh kế cuối cùng khi họ không thể tìm việc làm ở ngành nghề nào khác.

Nguồn: (WB, 2023)

Giải pháp nâng cao chất lượng lao động nông nghiệp

Để thực hiện được mục tiêu phát triển ngành Nông nghiệp nói chung, đội ngũ lao động nông nghiệp nói riêng, cần thực hiện các giải pháp trọng tâm sau:

Một là, chính thức hoá việc coi trọng vị thế của nghề nông nghiệp để thu hút người học nghề nông nghiệp. 

Thực tế cho thấy, tỷ lệ người học đăng ký vào các trường đào tạo khối ngành nông, lâm, ngư nghiệp những năng gần đây có xu hướng giảm (Nguyễn Kiểm, 2023). Tỷ lệ nhập học khối ngành này thuộc 1 trong 4 lĩnh vực có tỷ lệ tuyển sinh đầu vào đại học thấp nhất trong 3 năm liên tiếp 2020, 2021, 2022 (Anh Trang, 2022).

Do vậy, nghề nông nghiệp cần được công nhận là một nghề nghiệp chính thức và người lao động làm nghề nông nghiệp cần được hưởng các quyền lợi và nghĩa vụ như người lao động ở các ngành nghề khác (được trả lương theo trình độ chuyên môn như các ngành nghề khác, được tham gia BHXH, BHYT, BHTN, đóng thuế TNCN). Đây là quan điểm cần được thực hiện đồng bộ, nhất quán và đưa vào các chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước về phát triển lực lượng lao động trong giai đoạn tới. Nhà nước có cơ chế lương, việc làm cho đối tượng học nghề nông nghiệp hợp lý hơn, cần có cơ chế ràng buộc các doanh nghiệp nông nghiệp trong việc tuyển dụng, sử dụng lao động đã qua đào tạo, coi nghề nông là một ngành kinh doanh có điều kiện bắt buộc về quy chuẩn kỹ thuật (để thành lập và duy trì hoạt động) đảm bảo an toàn chất lượng nông sản, đảm bảo sức khoẻ, tính mạng của con người cũng như phúc lợi của động, thực vật.

Có như vậy, sẽ giảm chênh lệch giữa lao động các ngành nghề và thu hút người học nghề nông nghiệp.

Hai là, cần tái cơ cấu một cách căn bản hệ thống các cơ sở đào tạo nghề nông nghiệp trên cơ sở hoàn thiện các chương trình đào tạo sát với nhu cầu thị trường

Tính đến năm 2022, cả nước có khoảng 50 cơ sở đào tạo các chuyên ngành về nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản, thủy lợi. Các cơ sở đào tạo trực thuộc Bộ NN&PTNT đang đào tạo 38 ngành đào tạo trình độ tiến sĩ; 39 ngành đào tạo thạc sĩ, 97 ngành đại học, 112 ngành cao đẳng, 122 ngành trung cấp. Tuy nhiên, tỷ lệ người học ở các ngành không đồng đều gây lãng phí nguồn lực (cả về cơ sở vật chất và người dạy) (Nguyễn Kiểm, 2023). 

Kết quả khảo sát thực tế năm 2021 của đoàn chuyên gia ILO về thực trạng đào tạo nghề nông nghiệp cho thấy các trường hiện đang gặp khó khăn trong tuyển sinh các nghề nông nghiệp. Số sinh viên theo học chương trình sơ cấp (3 tháng) liên tục giảm qua 3 năm, còn số sinh viên theo học các chương trình đào tạo dưới 3 tháng lại có xu hướng tăng (Nguyễn Thị Thuận & cs., 2021). 

Do vậy, cần có đánh giá lại một cách hệ thống về các cơ sở đào tạo, các chuyên ngành đào tạo đảm bảo đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động và năng lực đào tạo để tránh gây lãng phí nguồn lực.
Cần hoàn thiện các chương trình đào tạo theo sát với yêu cầu thị trường cả về nội dung đào tạo, thời gian đào tạo và hình thức đào tạo. Nhiều người học và người sử dụng lao động đánh giá chương trình đào tạo ở các cơ sở đào tạo hiện nay còn thiên về lý thuyết, ít thực hành, ít cập nhật kiến thức mới, ít chú trọng đào tạo kỹ năng mới cho người lao động (Nguyễn Thị Thuận & cs., 2021).

Ba là, cần đẩy mạnh xã hội hoá trong việc đào tạo nâng cao chất lượng cho lao động nông nghiệp
Với tình trạng thiếu lao động lành nghề và kỹ thuật viên được đào tạo thực tế, Chính phủ Việt Nam đã đặt đào tạo kỹ năng nghề và thúc đẩy việc làm làm trọng tâm cho các mục tiêu phát triển của mình. Trong Luật Giáo dục nghề nghiệp năm 2015 của Việt Nam, hỗ trợ thợ thủ công và lao động có tay nghề cao trong đào tạo nghề, đặc biệt là các nghề truyền thống ở khu vực nông thôn, là mục tiêu quan trọng cùng với quan hệ đối tác với khu vực tư nhân và các tổ chức phi chính phủ. Do vậy, cần thiết phải phát triển các liên kết giữa các cơ sở đào tạo, đơn vị sử dụng lao động và các cơ quan quản lý ở địa phương để có thể cùng tham gia xây dựng và thực hiện các chương trình đào tạo nghề nông nghiệp với nội dung sát với yêu cầu thực tiễn và với đầy đủ nguồn lực thực hiện. Thực tế cho thấy, tại nhiều cơ sở đào tạo, cơ sở vật chất chưa đầy đủ, nhiều hạng mục cần đầu tư thêm: Thiết bị thực hành và vật tư thực hành, trong khi đó doanh nghiệp thì lại sử dụng các trang thiết bị tiên tiến hiện đại. Điều này tạo ra khoảng cách kỹ năng của người lao động đã qua đào tạo với yêu cầu thực tiễn. Mức độ phối hợp giữa nhà trường và doanh nghiệp còn lỏng lẻo, nhiều nội dung hầu như không phối hợp. Nguyên nhân được cho là do 2 bên thiếu kết nối, thông tin cho nhau. Do vậy để nâng cao chất lượng đào tạo nghề cho lao động nông nghiệp trong thời gian tới cần tăng cường mối liên kết đào tạo giữa nhà trường và doanhnghiệp/người lao động. Các hoạt động liên kết có thể bao gồm: Tổ chức nhiều hoạt động phát triển kỹ năng nghề thông qua tổ chức các phong trào, hội thi kỹ năng giỏi, tham quan, học hỏi với sự tham gia của đông đảo người học, và người sử dụng lao động. Cần có khảo sát để đánh giá đúng sự thiếu hụt kỹ năng và nhu cầu nâng cao kỹ năng cho các đối tượng lao động khác nhau để xây dựng đề cương, chương trình đào tạo, hợp lý; bổ sung, lồng ghép các kỹ năng vào các môn học, đặc biệt tin học và ngoại ngữ phù hợp với yêu cầu của xu hướng tham gia sâu rộng của ngành Nông nghiệp vào toàn cầu hoá và chuyển đổi số hiện nay... 

(1) Học viện Nông nghiệp Việt Nam
(2) Đại học Thành Đông

Tài liệu tham khảo
Anh Trang. (2022, December 22). Vì sao ngành Nông, Lâm điểm chuẩn chỉ 15-16 nhưng tỷ lệ nhập học thuộc top thấp? Giáo dục Việt Nam. https://giaoduc.net.vn/post-231986.gd
Bộ NN&PTNT. (2021). Dự thảo lần 5: Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn bền vững giai đoạn 2021-2030 tầm nhìn đến 2050.
Liu, Y., Barrett, C. B., Pham, T., & Violette, W. (2020). 
Nguyễn Kiểm. (2023). Đào tạo nhân lực-Thách thức lớn của ngành nông nghiệp. 
Nguyễn Thị Thuận, Nguyễn Thị Thu Quỳnh, & Ngô Thị Hà. (2021). Báo cáo khảo sát thực trạng kỹ năng nghề nông nghiệp. ILO.
OECD &FAO. (2023). 
Quyết Định Số 3685/QĐ-BNN-KTHT Của Bộ Trưởng Bộ NN&PTNT (2022).
Tổng cục thống kê. (2021a), (2021b), (2022),(2023), (2024). 
WB. (2023). Đánh thức tiềm năng dịch vụ để tăng trưởng. https://documents1.worldbank.org/curated/en/099553403132341869/pdf/IDU0d25341fc0ea96049df0b77001fc3c50779ff.pdf.