Công ty Phân lân nung chảy Văn Điển

Nguồn “dưỡng chất bổ sung” tuyệt vời cho lúa Xuân ở Thái Nguyên

15:00 19/03/2020 GMT+7

Một khi đất nghèo được bổ sung dưỡng chất đủ các yếu tố đa, trung, vi lượng trong phân bón Văn Điển, thì cây lúa vụ Xuân ở Thái Nguyên cứ thoả sức “phất cờ mà lên”, hứa hẹn vụ mùa trĩu hạt.

Thái Nguyên là tỉnh miền núi phía Bắc, địa hình đồi núi nhấp nhô xen kẽ những thung lũng và những dải đất khá bằng phẳng chạy dài theo sông suối. Đất lúa nước ở đây được hình thành chủ yếu do quá trình xói mòn, rửa trôi tạo nên những vùng đất địa hình bậc thang, thành phần cơ giới không đồng nhất, kết cấu chưa bền, chưa định hình. Địa hình bậc thang tạo nên hiện tượng rửa trôi bề mặt nên một số diện tích cao,thành phần cơ giới nhẹ; nhiều  diện tích thấp trũng thành phần cơ giới nặng, thậm chí còn tình trạng lầy thụt.

Chăm sóc lúa Xuân ở Thái Nguyên. Ảnh minh hoạ: Toàn – Hưng

“Gỡ khó” cho đất lúa nghèo dinh dưỡng   

Theo kỹ sư Nguyễn Tiến Chinh – nguyên cán bộ Trung tâm Khuyến nông tỉnh Thái Bình, một chuyên gia giàu kinh nghiệm về bón phân cho cây lúa, đất lúa của tỉnh Thái Nguyên có hàm lượng mùn khá nghèo (riêng chân ruộng sình lầy hàm lượng mùn thô từ trung bình đến khá); nghèo lân tổng số, lân dễ tiêu rất nghèo, hàm lượng kali và cac kim loại kiềm, kiềm thổ như canxin (Ca), magie (Mg), silic (Si)… nghèo kiệt; pH thấp, hàm lượng ion nhôm (Al++), ion sắt (Fe++)  rất cao nên thường gây hiện tượng kìm hãm sinh trưởng cây lúa, đặc biệt giai đoạn đầu vụ Chiêm Xuân. Do đặc điểm địa hình và nguồn nước tưới, diện tích lúa mùa nhiều hơn lúa xuân, diện tích canh tác lúa cả tỉnh có khoảng trên 40.000ha, nhiều nhất ở các huyện Phú Bình, Đại Từ, thị xã Phổ Yên…

Nghiên cứu về sinh lý cây lúa, các nhà khoa học chỉ rõ: Chu kỳ sinh trưởng cây lúa được chia làm 2 giai đoạn là sinh trưởng sinh dưỡng và sinh trưởng sinh thực. Từ khi gieo hạt thóc xuống đất đến trước lúc đứng cái, làm đòng là giai đoạn sinh trưởng sinh dưỡng. Trong giai doạn này, cây lúa tập trung vào phát triển thân lá, đẻ nhánh, làm bẹ, hoạt động quang hợp, vận chuyển dinh dưỡng về các cơ quan dự trữ, chuẩn bị cho tích lũy vào hạt; tương ứng với thân lá trên mặt đất là bộ rễ lúa phát triển mạnh theo chiều ngang và tập trung ở lớp đất mặt. Đây là giai đoạn sinh trưởng quan trọng nhất, quyết định đến cả chu kỳ sinh trưởng, phát triển và năng suất ruộng lúa.

Do vậy phải chọn phân bón giàu chất đạm và kali, đồng thời đầy đủ các dinh dưỡng trung- vi lượng để bón thúc giúp cây lúa đẻ nhánh sớm, đẻ tập trung và đủ sức nuôi các nhánh mới đẻ sinh trưởng khỏe để phát triển thành những dảnh lúa hữu hiệu.

Những điểm ưu việt của phân bón Văn Điển

Phân bón đa yếu tố (ĐYT) NPK Văn Điển chuyên bón thúc cho lúa có nhiều loại công thức khác nhau như:

– Phân đa yếu tố NPK (16 : 5 : 17) có hàm lượng N 16%, P2O5 5%. K2O 17%, Mg 5%, SiO2 7%, CaO  8%, S 2%;

– Phân bón đa yếu tố loại NPK 12 : 5 : 10 có hàm lượng N12%, P2O5 5%, K2O 10%,   Mg2%, SiO2 4%, CaO 5%…

Bên cạnh các sản phẩm truyền thống như phân ĐYT NPK 16:5:17 chuyên bón thúc dạng trộn thô (phân có nhiều gai, nhiều dằm..), nay thay thế bằng phân trộn dạng hạt, không có gai, dằm nhưng chất lượng vẫn giữ nguyên như cũ.

Ngoài ra còn các dòng sản phẩm mới như ĐYT NPK 14:6:8+TE hoặc  13:3:10 +TE. (còn gọi lá Lúa 2) chuyên bón thúc dạng viên nén…

Các sản phẩm phân bón mới có chất lượng đảm bảo, dễ sử dụng, nông dân cũng chỉ bón thúc sớm 1-2 lần tùy thời tiết và chân ruộng. Đây là các loại phân bón có thành phần dinh dưỡng nhiều nhất trong tất cả các loại phân bón. Những loại phân bón này có hàm lượng dinh dưỡng đạm cao, giúp cây lúa đẻ khỏe, vươn lá, vươn thân.

Hàm lượng dinh dưỡng kali khá cao trong phân bón thúc nhằm “đặt vòng” cho lúa đẻ nhánh vừa phải; kali giúp tăng hiệu suất quang hợp tạo ra nhiều sản phẩm hữu cơ; đồng thời kali vận chuyển dòng nhựa luyện về nuôi các nhánh mới đẻ giúp các nhánh phát triển thành bông hữu hiệu. Ngoài việc cân đối các chất NPK theo nhu cầu cây lúa giai đoạn đẻ nhánh, còn đủ mặt các chất dinh dưỡng trung, vi lượng như Mg, Ca, Si… hình thành các phân tử cao năng và các men tổng hợp giúp cây lúa sinh trưởng khỏe mạnh, chống chịu tốt với sâu bệnh và môi trường bất thuận, đồng thời tạo vật chất cho giai đoạn hình thành bông to, hạt mẩy, cải tiến chất lượng cơm gạo.

Phân bón NPK 16.5.17 chuyên bón thúc cho lúa (dạng hạt) của Công ty CP Phân lân Nung chảy Văn Điển. Ảnh Tư liệu.

Cách bón phân Văn Điển cho lúa Xuân ở Thái Nguyên

Trươc đây, bà con nông dân Thái Nguyên thường gieo cấy các giống lúa dài ngày như nhóm lúa bao thai, mộc tuyền, nhóm lúa nếp cao và nhóm lúa U (nhóm lúa chịu úng); canh tác lúa bằng phân đạm và các loại phân tan nhanh; đặc biệt quen dùng các loại phân gốc chua trên nền đất chua càng làm đất chua thêm, hiện tượng lúa mới cấy bị kìm hãm nhiều hơn, rong rêu phát sinh mạnh hơn gây khó khăn trong sản xuất. Mặt khác, bón phân tan nhanh trên ruộng bậc thang càng giúp quá trình rửa trôi trên ruộng cạn, quá trình kết tủa dưới ruộng trũng diễn ra mạnh hơn, gây lãng phí phân bón nghiêm trọng. Bón thừa đạm nhưng thiếu kali và các dinh dưỡng trung, vi lượng nên lúa thường đẻ nhiều, ruộng lúa sớm tốt, chật đất nhưng đổ nhiều, sâu bệnh nặng và cho năng suất chất lượng thấp.

Vài chục năm lại đây, bên cạnh các giống lúa đặc sản địa phương như bao thai (Định Hóa), nông dân  các vùng cấy lúa Thái Nguyên đã chuyển sang gieo cấy các giống lúa lai, lúa thuần năng suất, chất lượng cao; đồng thời sử  dụng phân bón chuyên lúa của Văn Điển, đặc biệt sử dụng các loại sản phẩm phân đa yếu tố NPK Văn Điển chuyên bón thúc lúa. Tùy chân ruộng, tùy giống lúa, tùy lượng phân hữu cơ đã được bón vào ruộng và tùy loại phân bón thúc mà tính toán lượng phân cần bón. Trung bình trên mỗi sào Bắc Bộ, cần bón khoảng trên dưới 15kg phân ĐYT NPK chuyên bón lót và khoảng 10kg phân ĐYT NPK chuyên bón thúc lúa. Gieo cấy xong giữ đủ ẩm mặt ruộng cho cây lúa sinh trưởng, đồng thời xử lý thuốc trừ cỏ cho ruộng lúa.

Với lúa gieo thẳng thì bón thúc lần đầu khi cây lúa 2,5 lá tuổi, lúc này có thể bón 1-2 kg urê nhằm kích thích đẻ nhánh. Sau khoảng 5-7 ngày thì tập trung bón phân chuyên bón thúc Lúa 2 hoặc các loại phân bón thúc khác. Với lúa cấy, bón thúc lần đầu khi trời ấm và lúa ra lá non. Để giảm bớt thất thoát phân bón do hiện tượng bốc hơi, rửa trôi hay thẩm lậu,  bà con không bón phân thúc khi trời nắng nóng và khi ruộng nhiều nước. Thường bón phân khi trời mát và ruộng cạn nước, tốt nhất chỉ sử dụng phân bón chuyên thúc cho lúa, không bón thêm phân đơn, không bón phân muộn, không bón rải làm nhiều lần.

Kinh nghiệm lão nông: “Vụ Xuân năm nay khá tốn phân”

Vụ Xuân 2020 thời tiết diễn biến phức tạp, khó lường hơn nhiều năm gần đây, sâu bệnh, dịch hại có thể phát sinh nhiều, hiện tượng khô hạn có thể xảy ra trên diện rộng, nhiều diện tích có thể thiếu nước. Theo kinh nghiệm các lão nông thì năm nay khá “tốn phân”. Do vậy, bón phân thúc cho lúa phải đáp ứng đầy đủ và cân đối các yếu tố dinh dưỡng, đồng thời phải cung cấp đúng thời điểm, đúng vị trí mới có thể giúp cây  lúa khỏe, chống chịu tốt hơn với sâu bệnh và ngoại cảnh bất thuận và có thể cho năng suất tối ưu.

Do thời tiết ấm nhiều, bà con nông dân cần tăng lượng phân bón các loại lên 10-15% (tùy thuộc tình hình thực tế), bón rải phân bón thúc làm 2 hoặc 3 lần để kéo dài thời gian sinh trưởng, tức là kéo dài thời gian tích lũy dinh dưỡng, tạo điều kiện cho năng suất và chất lượng thóc gạo cao hơn. Sử dụng phân chuyên bón thúc lúa  thực hiện bón thúc sớm, không bón quá nhiều lần và không thúc muộn quá sẽ giúp cây lúa phát triển cân đối, khỏe mạnh; đẻ nhánh vừa phải, nhưng đạt tỷ lệ nhánh hữu hiệu cao, tạo ruộng lúa thoáng gốc, màu sắc lá không xanh đen, nhưng nhiều bông, ít sâu bệnh hại, lúa đứng cây ít đổ ngã, bộ lá lúa vàng tươi đến khi bông lúa chín hoàn toàn, tăng năng suất và chất lượng; đạt hệ số kinh tế cao.

Theo kỹ sư Nguyễn Tiến Chinh, phát huy đặc tính ưu việt của sản phẩm phân bón thúc Văn Điển là giải pháp tối ưu trong việc giảm sâu bệnh hại, nâng cao hiệu quả trong canh tác lúa Xuân 2020 ở tỉnh Thái Nguyên.

Trọng Hòa – Nam Phong