Công ty Phân lân nung chảy Văn Điển

Để Văn hóa là động lực cho sự phát triển kinh tế

Văn hóa và kinh tế là hai lĩnh vực quan trọng của đời sống xã hội. Nếu kinh tế được xem là nền tảng vật chất của xã hội thì văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội. Hơn thế, giữa văn hóa và kinh tế có mối quan hệ mật thiết, qui định lẫn nhau. Kinh tế phát triển sẽ tạo nguồn lực hỗ trợ, thúc đẩy cho văn hóa phát triển, và ngược lại, văn hóa phát triển cũng sẽ góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển.
Chùa Tam Chúc (huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam) - ngôi chùa lớn nhất thế giới thu hút đông đảo du khách đến tham quan, chiêm bái. Ảnh: T.L

Mọi quá trình phát triển của các quốc gia đều phải chú ý đến cả hai yếu tố văn hóa và kinh tế, nếu chỉ chú ý đến một trong hai yếu tố thì sẽ khó đạt được mục tiêu phát triển bền vững. Hay nói cách khác, xử lý hài hòa mối quan hệ giữa văn hóa và kinh tế là cách thức tối ưu để các quốc gia đạt được mục tiêu phát triển.

Trong mối quan hệ giữa văn hóa và kinh tế, vai trò của kinh tế đối với sự phát triển văn hóa đã được nhận thức sâu sắc và khẳng định cả về phương diện lý luận và thực tiễn. Nhưng ở chiều cạnh còn lại, về mối quan hệ giữa văn hóa và kinh tế, về vai trò của văn hóa đối với sự phát triển kinh tế thì mới được quan tâm nhiều hơn trong thời gian gần đây. 

Trên cơ sở tiếp cận những thành tựu trong nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn phát triển đất nước, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã khẳng định quan điểm phát triển của Việt Nam là “phát triển hài hòa giữa kinh tế với văn hóa, xã hội, bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu”; trong đó, nhấn mạnh cần xây dựng, phát huy yếu tố văn hóa để văn hóa thực sự là động lực đột phá phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế.

Để phát huy vai trò của văn hóa với tư cách là động lực đột phá cho sự phát triển kinh tế, chúng ta cần phải làm gì? Bài viết này sẽ tập trung làm rõ mối quan hệ giữa văn hóa và kinh tế và đề xuất một số giải pháp để phát huy vai trò của văn hóa với tư cách là động lực đột phá cho phát triển kinh tế.

Nhận thức lý luận về mối quan hệ giữa văn hóa và kinh tế

Trước đây, khi đề cập đến mối quan hệ giữa văn hóa và kinh tế, quan điểm phổ biến được nhiều người đồng thuận là: Văn hóa là lĩnh vực tinh thần thuần túy, phi sản xuất, phi lợi nhuận. Với quan điểm như vậy, khi bàn về mối quan hệ giữa văn hóa và kinh tế, đương nhiên, sẽ chỉ nhìn thấy một chiều, kinh tế phát triển sẽ thúc đẩy văn hóa phát triển. Còn về chiều ngược lại, tác động của văn hóa đối với kinh tế, nếu có, sẽ chỉ giới hạn ở vai trò văn hóa cổ vũ cho sự phát triển kinh tế, văn hóa là thứ hoa lá cành trang trí cho cỗ máy công nghiệp.

Tuy nhiên, từ khi Đảng lãnh đạo tiến hành công cuộc đổi mới, tư duy về văn hóa, về mối quan hệ giữa văn hóa và kinh tế đã có sự thay đổi. Vai trò của văn hóa đối với sự phát triển nói chung, đối với phát triển kinh tế nói riêng đã được nhìn nhận một cách toàn diện và thấu đáo hơn. Văn hóa được xem là nền tảng tinh thần, vừa là mục tiêu, vừa là động lực cho sự phát triển kinh tế. Bản chất của văn hóa là sự sáng tạo hướng tới các giá trị nhân văn, vì con người. Vì con người, vì ấm no, hạnh phúc của con người và sự thịnh vượng của quốc gia - đây cũng chính là mục tiêu của phát triển nói chung và phát triển kinh tế nói riêng. Phát triển kinh tế bền vững phải hướng tới những giá trị văn hóa, thể hiện qua những chuẩn mực trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng, bảo đảm cho mọi người đều được thụ hưởng thành quả của phát triển kinh tế, không ai bị bỏ lại phía sau. Xây dựng văn hóa doanh nghiệp, văn hóa kinh doanh, văn hóa doanh nhân chính là những thực tế sinh động của sự thẩm thấu những giá trị văn hóa vào hoạt động kinh tế. Với tư cách là động lực của phát triển, văn hóa góp phần tạo dựng môi trường lành mạnh để phát triển kinh tế. Ở đó, con người có điều kiện và cơ hội để phát huy năng lực sáng tạo, chủ động, tham gia tích cực vào đời sống kinh tế. Đồng thời, một môi trường văn hóa lành mạnh sẽ là mảnh đất màu mỡ để phát triển nền kinh tế thị trường văn minh, đẩy lùi các tiêu cực và tệ nạn xã hội. Văn hóa không chỉ là động lực gián tiếp mà văn hóa còn là động lực trực tiếp cho sự phát triển kinh tế. Sự phát triển của các ngành công nghiệp văn hóa đã và đang mang lại kỳ vọng vào một hướng phát triển nhanh, bền vững của nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam. Công nghiệp văn hóa là một tập hợp các ngành phát triển dựa trên sự khai thác tổng hợp các yếu tố: Sáng tạo, khoa học - công nghệ, thị trường và vốn văn hóa. Thay vì khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên hữu hạn như nhiều ngành nghề khác, ngành Công nghiệp văn hóa khai thác nguồn tài nguyên vô hạn là sức sáng tạo của con người. Công nghiệp văn hóa chính là một biểu hiện tập trung của sự gắn kết chặt chẽ giữa văn hóa và kinh tế trong phát triển.
Những nhận thức lý luận về mối quan hệ giữa văn hóa và kinh tế đã được thể hiện trong Văn kiện của Đảng thời kỳ đổi mới.

Trong Văn kiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ năm khóa VIII “Về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” (1998) Đảng ta đã xác định: “Chăm lo văn hóa là chăm lo củng cố nền tảng tinh thần của xã hội. Thiếu nền tảng tinh thần tiến bộ và lành mạnh, không quan tâm giải quyết mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội thì không thể có sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững. Xây dựng và phát triển kinh tế phải nhằm mục tiêu văn hóa, vì xã hội công bằng, văn minh, con người phát triển toàn diện. Văn hóa là kết quả của kinh tế, đồng thời là động lực của sự phát triển kinh tế”. Cũng trong Nghị quyết này, lần đầu tiên Đảng ta đã xác định sự cần thiết phải xây dựng chính sách kinh tế trong văn hóa và chính sách văn hóa trong kinh tế. Đảng ta khẳng định: “Chính sách văn hóa trong kinh tế bảo đảm cho văn hóa thể hiện rõ trong các hoạt động kinh tế, đồng thời thúc đẩy các hoạt động kinh tế tạo điều kiện nhiều hơn cho sự nghiệp phát triển văn hóa.

Việc xây dựng các mục tiêu, giải pháp kinh tế phải gắn với các mục tiêu, giải pháp văn hóa, chăm lo con người, nêu cao đạo đức trong sản xuất kinh doanh, xây dựng văn minh thương nghiệp, đạo đức nghề nghiệp, văn hóa kinh doanh”.

Từ sau Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về văn hóa, Đảng ta đã bổ sung những quan điểm lý luận mới về văn hóa trong kinh tế. Nổi bật là luận điểm “Đảm bảo sự gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt với không ngừng nâng cao văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội, tạo nên sự phát triển đồng bộ của 3 lĩnh vực trên chính là điều kiện đảm bảo cho sự phát triển toàn diện và bền vững của đất nước”.  Như vậy, sự phát triển bền vững đất nước không chỉ bao gồm 3 nhân tố: Kinh tế, xã hội, môi trường mà còn bao hàm cả nhân tố văn hóa. Luận điểm này thể hiện bước phát triển mới trong tư duy lý luận về văn hóa trong kinh tế của Đảng. Đại hội XI của Đảng đã tiếp tục khẳng định: “Phát triển văn hóa, xã hội hài hòa với phát triển kinh tế, đảm bảo tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước về chính sách phát triển thể hiện rõ tính ưu việt của chế độ ta”. Đây là luận điểm cốt lõi phản ánh tính chất ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng trong bối cảnh kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.

Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 9 khóa XI của Đảng “Về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước” đã xác định vấn đề văn hóa, con người phải gắn liền với yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Nghị quyết đã nêu lên nhiệm vụ xây dựng văn hóa trong kinh tế, gắn các hoạt động văn hóa với phát triển kinh tế. Đảng ta đã nhấn mạnh: “Thường xuyên quan tâm xây dựng văn hóa trong kinh tế. Con người thực sự là trung tâm trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Tạo lập môi trường văn hóa pháp lý, thị trường sản phẩm văn hóa minh bạch, tiến bộ, hiện đại để các doanh nghiệp tham gia xây dựng phát triển văn hóa. Xây dựng văn hóa doanh nghiệp, văn hóa doanh nhân với ý thức tôn trọng pháp luật, giữ chữ tín, cạnh tranh lành mạnh, vì sự phát triển bền vững và bảo vệ Tổ quốc”. 
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng (2016) tiếp tục khẳng định: “Thường xuyên quan tâm xây dựng văn hóa trong kinh tế. Xây dựng văn hóa doanh nghiệp, văn hóa doanh nhân với ý thức tôn trọng, chấp hành pháp luật, giữ chữ tín, cạnh tranh lành mạnh vì sự phát triển bền vững của đất nước, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng nhấn mạnh hơn nữa vai trò động lực của văn hóa trong phát triển kinh tế: “Gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Xây dựng, phát huy yếu tố văn hóa để thực sự là đột phá phát triển kinh tế - xã hội, hội nhập quốc tế” và “Phát triển toàn diện, đồng bộ các lĩnh vực văn hóa, môi trường văn hóa, đời sống văn hóa phong phú, đa dạng, văn minh, lành mạnh; vừa tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại để văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần, nguồn lực nội sinh và động lực đột phá cho phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế”.

Những quan điểm của Đảng về mối quan hệ giữa văn hóa và kinh tế là những vấn đề lý luận rất mới, có ý nghĩa chỉ đạo thực tiễn sâu rộng để đảm bảo sự hài hòa trong phát triển văn hóa và tăng trưởng kinh tế, vì mục tiêu phát triển bền vững đất nước. 

Thực tiễn phát huy vai trò động lực của văn hóa trong phát triển kinh tế ở Việt Nam

Sự hiện diện và thẩm thấu của văn hóa trong các hoạt động kinh tế ngày càng sâu rộng hơn. Với tư cách là động lực cho sự phát triển kinh tế, văn hóa đã tham gia điều tiết và thúc đẩy sự phát triển kinh tế ở nhiều phương diện, tiêu biểu là các phương diện sau:

Hệ giá trị văn hóa điều tiết các hoạt động kinh tế theo hướng nhân văn

Hệ giá trị văn hóa của mỗi quốc gia, dân tộc được hình thành trong suốt chiều dài lịch sử, dưới tác động của các điều kiện tự nhiên, kinh tế, chính trị, xã hội,… Hệ giá trị ấy quy định sự lựa chọn, thế ứng xử của cả cộng đồng và của từng cá nhân thuộc về cộng đồng ấy. Khi các giá trị văn hóa thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trong đó có hoạt động kinh tế, nó sẽ có tác dụng định hướng, điều chỉnh các hoạt động của các chủ thể kinh tế theo hướng nhân văn, vì cái đúng, cái tốt, cái đẹp. Lúc này, các chủ thể kinh tế không chỉ quan tâm đến lợi nhuận, mà còn quan tâm đến lợi ích của người lao động, trách nhiệm với cộng đồng, với môi trường, với quốc gia. Các hành vi sản xuất, kinh doanh đi ngược lại các giá trị Chân - Thiện - Mỹ bị phê phán, bị khước từ. Trong cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam hiện nay, việc xây dựng văn hóa doanh nghiệp, đạo đức kinh doanh, văn hóa doanh nhân, … đã có sự chuyển dịch từ phong trào đi vào thực chất, đi vào chiều sâu, trở thành nhu cầu tự thân của mỗi doanh nghiệp. Khi văn hóa tham gia điều tiết các hoạt động kinh tế, trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp gia tăng, khi đó, không chỉ doanh nghiệp được lợi mà cộng đồng, xã hội và người dân cùng được chia sẻ lợi ích. Như vậy, văn hóa là đường dẫn để kết nối giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Đây chính là một trong các tiền đề để phát triển kinh tế - xã hội bền vững.

Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc trong phát triển kinh tế

“Khát vọng và ý chí phát triển là động lực hết sức quan trọng để đưa mọi dân tộc đi tới thịnh vượng và thành công”. Khát vọng về một đất nước độc lập, hòa bình, phồn vinh, hạnh phúc đã hun đúc nên ý chí, dẫn dắt các thế hệ người Việt Nam vượt thoát khỏi bao cuộc thử thách hiểm nghèo của lịch sử, giành lại độc lập và chung tay xây dựng đất nước. Lịch sử đã chứng minh rằng những giá trị văn hóa được khơi dậy đúng mức sẽ biến thành sức mạnh to lớn. 

Có thể nói, cơ đồ dân tộc khát vọng phát triển đất nước đã tạo nên sự chuyển động của nền kinh tế quốc dân trong cả mục tiêu và phương thức phát triển. Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ kết hợp với đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ kinh tế quốc tế không chỉ là phương châm phát triển kinh tế quốc gia mà còn thể hiện rõ trong định hướng phát triển của các doanh nghiệp. Trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã không ngừng đổi mới, sáng tạo, bằng ý chí, nỗ lực, khẳng định được uy tín, vị thế trên thương trường. Từ các slogan đến các kế hoạch sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp này đã thể hiện được khát vọng phát triển, ý chí tự cường, lòng tự hào dân tộc. Không giới hạn mình trong phạm vi biên giới lãnh thổ, rất nhiều doanh nghiệp đã vươn ra thị trường quốc tế và khẳng định thương hiệu.

Trong hoạt động tiêu dùng hàng hóa, cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” do Thủ tướng phát động đã thu hút được sự quan tâm, hưởng ứng của các bộ, ngành, địa phương và đông đảo người tiêu dùng trong cả nước. Cuộc vận động lớn này chính là một cách làm sáng tạo nhằm khơi dậy tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc trong mỗi người dân. Kết quả là hệ thống phân phối hàng “made in Việt Nam” đã được phát triển rộng khắp trên cả nước. Nhiều thương hiệu hàng hóa do các doanh nghiệp trong nước sản xuất đã tạo được chỗ đứng trên thị trường, tạo được uy tín với người tiêu dùng. Tỷ lệ các doanh nghiệp và người tiêu dùng biết đến Chương trình quốc gia “Tinh hoa Việt Nam”, “Tự hào hàng Việt Nam” không ngừng gia tăng. Có thể thấy rằng, sau hơn 10 năm triển khai, với sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” đã góp phần thay đổi nhận thức và hành vi tiêu dùng của người Việt Nam. Điều đó tạo nên sự khích lệ to lớn để các doanh nghiệp trong nước tiếp tục sản xuất nhiều sản phẩm chất lượng tốt, giá thành hợp lý. 

Phát triển các ngành công nghiệp văn hóa

Vai trò của văn hóa trong phát triển kinh tế không chỉ dừng lại ở vị thế của những nguồn lực tinh thần, tham gia điều tiết, định hướng, thúc đẩy phát triển kinh tế mà văn hóa còn là động lực trực tiếp cho sự phát triển kinh tế. Thực tế đã chứng minh rằng rất nhiều các lĩnh vực văn hóa nếu được khai thác hợp lý sẽ có khả năng đóng góp trực tiếp cho nền kinh tế quốc dân. Phát triển công nghiệp văn hóa chính là sự lựa chọn hiệu quả cho hướng phát triển này.

Quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước, sự ra đời của Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030, ... đã bước đầu tạo được nhận thức của xã hội về vai trò, vị trí các ngành công nghiệp văn hóa cũng như sự cần thiết phải đầu tư các nguồn lực cho công nghiệp văn hóa. Dù ra đời muộn hơn các nước trong khu vực và trên thế giới, nhưng ngành Công nghiệp văn hoá Việt Nam cũng đã có những đóng góp nhất định đối với nền kinh tế quốc dân. Một số lĩnh vực công nghiệp văn hóa như điện ảnh, mỹ thuật và quảng cáo, phần mềm kỹ thuật số và trò chơi điện tử, du lịch văn hóa, ... đã có những bước phát triển đáng ghi nhận. Theo Chiến lược phát triển các ngành Công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030, đến năm 2020, các ngành Công nghiệp văn hóa đóng góp 3% GPD và ước tính đến năm 2030, con số đó sẽ là 7%GDP. 

Tình trạng làm ăn phi pháp như buôn lậu, lừa đảo, trốn thuế, hàng giả, hàng độc hại, tệ tham nhũng, lãng phí... ngày càng gia tăng cho thấy đạo đức kinh doanh, văn hoá trong kinh tế còn nhiều khiếm khuyết. Trong ảnh: Quản lý thị trường tỉnh Hòa Bình xử lý, tiêu hủy hàng giả, hàng nhái. Ảnh: Đ.T

Những vấn đề đặt ra và giải pháp phát huy vai trò động lực đột phá của văn hóa đối với phát triển kinh tế

 Những vấn đề đặt ra: Nhìn lại 35 năm đổi mới có thể thấy việc phát huy vai trò của văn hóa trong phát triển kinh tế đã được quan tâm cả về phương diện chủ trương, đường lối, chính sách và triển khai trong thực tế. Những cố gắng đó, mức độ nhất định đã mở đường để các giá trị văn hóa thâm nhập vào trong đời sống kinh tế, góp phần tạo nên sự tăng trưởng kinh tế trong thời gian qua. Tuy nhiên, nhìn một cách toàn diện cả về phương diện lý luận và thực tiễn, có thể thấy còn rất nhiều những vấn đề đặt ra.

Về phương diện lý luận: Cho đến nay, khung lý thuyết chung về văn hóa trong kinh tế vẫn còn chưa được xác lập và các tiêu chí để đánh giá vai trò văn hóa trong kinh tế cũng chưa rõ ràng. Văn hóa trong kinh tế bao hàm những nội dung cốt lõi nào? Xây dựng văn hóa trong kinh tế chỉ tập trung vào xây dựng văn hóa doanh nghiệp, văn hóa doanh nhân hay cần mở rộng sang cả hệ thống tầm nhìn, xây dựng chiến lược và quy hoạch phát triển kinh tế, tháo gỡ về thể chế, đào tạo nguồn nhân lực, đẩy mạnh sáng tạo và ứng dụng khoa học, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, chống các rào cản đối với sự phát triển kinh tế nhìn từ góc độ văn hóa? Hàng loạt các câu hỏi vẫn đang cần những lời giải đáp từ phía các nhà nghiên cứu, các nhà quản lý.

Về phương diện thực tiễn: Chủ trương xây dựng chính sách văn hóa trong kinh tế được Đảng ta nêu ra trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII (1998) nhưng chậm được cụ thể hóa, thể chế hóa nên chưa tạo nên được sự chuyển biến mạnh mẽ trong hoạt động kinh tế.

Tầm nhìn về sự phát triển kinh tế bền vững của các bộ, ngành, địa phương nói riêng còn yếu, không nhất quán, thiếu đồng bộ nên để xảy ra hậu quả nghiêm trọng về quy hoạch, về môi trường, làm thất thoát tài nguyên và tài sản của nhà nước và nhân dân, tạo nhiều kẽ hở cho tham nhũng, lãng phí hoành hành. Hàng loạt vụ đại án kinh tế trong thời gian qua chứng tỏ vai trò của văn hóa trong phát triển kinh tế chưa được phát huy, những giá trị văn hóa, đạo đức trong hoạt động kinh tế không được coi trọng.

Việc xây dựng văn hóa doanh nhân, văn hóa doanh nghiệp, văn hóa kinh doanh, văn hóa lao động, văn minh thương mại, dịch vụ chưa thực sự đi vào đời sống kinh tế. Văn hóa chưa đủ sức lan tỏa, vun trồng, bồi đắp những nhân tố mới, những giá trị mới tích cực, tiến bộ, chưa đẩy lùi được những nhân tố tiêu cực, độc hại trong hoạt động kinh tế.

Chính vì vậy, tình trạng làm ăn phi pháp như buôn lậu, lừa đảo, trốn thuế, hàng giả, hàng độc hại, tệ tham nhũng, lãng phí... ngày càng gia tăng, làm tiêu phí nguồn lực phát triển kinh tế, gây nên những bức xúc trong xã hội.

Thị trường các sản phẩm và dịch vụ văn hóa đã hình thành, nhưng còn nhỏ lẻ, thiếu đồng bộ, còn mang nhiều yếu tố tự phát. Các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh sản phẩm và dịch vụ văn hóa chưa có sự kết nối, phần lớn là hoạt động khó khăn, nguồn lực hạn chế, sức cạnh tranh thấp. Các sản phẩm văn hóa tuy nhiều nhưng ít các sản phẩm có giá trị tư tưởng, thẩm mỹ cao. Việc xây dựng các ngành công nghiệp văn hóa còn nhiều lúng túng, chưa mang lại hiệu quả như mong muốn.

Nhìn chung tác động của văn hóa vào trong kinh tế còn hạn chế, chưa đủ sức mạnh để tạo nên quá trình “văn hóa hóa kinh tế”, nhằm xây dựng một nền kinh tế nhân văn, kinh tế vì con người và bảo vệ môi trường sinh thái. 

Giải pháp

Để văn hóa trở thành “động lực đột phá” cho sự phát triển kinh tế như tinh thần Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, thiết nghĩ, cần phải tập trung vào các giải pháp sau:

Một là, thể chế hóa quan điểm, đường lối của Đảng về vai trò của văn hóa trong phát triển nói chung, trong phát triển kinh tế nói riêng. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng, nguyên nhân của cả thành công hay thất bại của các quốc gia liên quan mật thiết đến thể chế của quốc gia đó. Như đã trình bày ở trên, hệ thống quan điểm của Đảng về vai trò của văn hóa trong phát triển kinh tế thời kỳ đổi mới đã được nêu rõ trong Văn kiện các kỳ Đại hội Đảng. Nếu những quan điểm này đi vào cuộc sống, chắc chắn sẽ tạo được sự chuyển động trong phát triển kinh tế theo mục tiêu đề ra. Chính vì vậy, trước hết và trên hết, cần tập trung thể chế hóa các quan điểm của Đảng về vai trò của văn hóa trong phát triển kinh tế thành luật pháp, thành các chiến lược, thành các qui định cụ thể. Cần xây dựng chế tài về mối quan hệ giữa văn hóa và kinh tế, xác định được trách nhiệm pháp lý của các chủ thể kinh tế trong việc tuân thủ các giá trị, chuẩn mực văn hóa cũng như khai thác nguồn vốn văn hóa để phát triển kinh tế. Có như vậy, mới tạo động lực cho các doanh nghiệp tìm tòi, đổi mới mô hình hoạt động theo hướng coi trọng các giá trị văn hóa trong sản xuất, kinh doanh.  

Hai là, cần xây dựng bộ chỉ số theo dõi, đánh giá năng lực điều hành, quản lý nhà nước của các chính quyền địa phương trong xây dựng, phát triển văn hóa, con người. Đối với các lĩnh vực khác như kinh tế, xã hội, để đo lường được sự phát triển đã có thước đo là các bộ chỉ số. Đối với lĩnh vực văn hóa, cho đến nay, vẫn chưa có công cụ đo lường hiệu quả. Điều này làm hạn chế việc huy động các nguồn lực để đầu tư phát triển văn hóa con người. Vì thiếu đi những bộ công cụ đo lường, sẽ không thấy được tính hiệu quả của các dự án, các kế hoạch phát triển văn hóa. Dư luận xã hội luôn quan ngại đầu tư cho văn hóa là lãng phí, không thiết thực một phần cũng vì sự thiếu hụt này. Mặc dù văn hóa là lĩnh vực rộng lớn, phức tạp, không phải lúc nào cũng có thể định lượng được sự phát triển của văn hóa nhưng với quyết tâm chính trị của những nhà lãnh đạo quản lý và các nhà khoa học, việc xây dựng bộ chỉ số phát triển văn hóa, con người là khả thi.

Ba là, cần xây dựng báo cáo thường niên về phát triển văn hóa, con người Việt Nam. Mặc dù văn hóa được “đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội” nhưng trong hệ thống số liệu thống kê quốc gia hàng năm, số liệu về văn hóa luôn là khiêm tốn nhất. Điều này có nhiều nguyên nhân, có nguyên nhân từ phía cung cấp thông tin và có nguyên nhân từ việc tiếp nhận, xử lý thông tin. Nhưng dù là nguyên nhân nào thì cũng dẫn đến kết quả là khó khăn trong tiếp cận các thông tin, số liệu về văn hóa. Việc tổ chức nghiên cứu, xây dựng và công bố báo cáo thường niên về văn hóa sẽ khắc phục những hạn chế nêu trên, cung cấp một cái nhìn toàn diện về các lĩnh vực văn hóa, thấy được điểm mạnh, điểm yếu để kịp thời có những giải pháp phù hợp thúc đẩy văn hóa phát triển.

Bốn là, tập trung phát triển ngành Công nghiệp văn hóa và hoàn thiện thị trường các sản phẩm và dịch vụ văn hóa. Đây là ngành kinh tế mới, hứa hẹn nhiều tiềm năng, đặc biệt là đối với một quốc gia sở hữu nguồn vốn văn hóa phong phú như Việt Nam. Tuy nhiên, để biến tiềm năng thành hiện thực, thành những nguồn lực, động lực để phát triển thì đòi hỏi cần phải có sự thay đổi cả về tư duy và hành động. Nhà nước nên lựa chọn để đầu tư, hỗ trợ một số lĩnh vực công nghiệp văn hóa cũng như ban hành chính sách để thu hút các thành phần kinh tế tham gia phát triển công nghiệp văn hóa. Các chính quyền địa phương cũng phải quyết liệt hơn nữa cùng với Chính phủ trong việc đưa Nghị quyết của Đảng vào cuộc sống, xây dựng và phát triển ngành công nghiệp văn hóa dựa trên khai thác các lợi thế so sánh của địa phương mình.

Văn hóa, trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc, đã khẳng định vị trí của của mình trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong bối cảnh đổi mới và hội nhập hiện nay, văn hóa tiếp tục phát huy vai trò của mình với tư cách là nền tảng tinh thần, là nguồn lực nội sinh quan trọng, là động lực cho sự phát triển đất nước. Mối quan hệ giữa văn hóa và kinh tế ngày càng gắn bó. Đây là một trong những mối quan hệ lớn của đất nước, của thời đại, mà nếu được giải quyết tốt, sẽ góp phần làm gia tăng sức mạnh tổng hợp quốc gia, đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững. 

Tài liệu tham khảo: 
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Phần I (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Hà Nội, 2019.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Phần II (Đại hội X, XI, XII), Hà Nội, 2019.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb.Chính trị quốc gia Sự thật, H.2021, Tập I, II.
4. PGS.TS. Phạm Duy Đức - PGS.TS. Vũ Thị Phương Hậu (đồng chủ biên): Văn hóa trong chính trị và văn hóa trong kinh tế ở Việt Nam, một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, 2019.
5. GS, TS. Phạm Xuân Nam (chủ biên): Triết lý phát triển ở Việt Nam. Mấy vấn đề cốt yếu, Nxb Khoa học xã hội, 2002.
6. GS.TS. Nguyễn Xuân Thắng: Tư tưởng, lý luận với đổi mới và phát triển đất nước, Nxb chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021.