![](https://media.tapchinongthonmoi.vn/resize_256x153/mediav2/upload/2024/07/27/a-ngay-tbls-27.7_27072024065827_721.jpg-ok_27072024065827_721.jpg)
Bộ trưởng Đào Ngọc Dung: An sinh xã hội phải chủ động ứng phó với rủi ro
Năm 2022 là một năm với nhiều dấu ấn của các chính sách an sinh xã hội. Chưa bao giờ các chính sách hỗ trợ trực tiếp cho người lao động và doanh nghiệp được triển khai nhiều như trong năm vừa qua. Bước sang năm 2023, người lao động và doanh nghiệp vẫn kỳ vọng thị trường lao động sẽ ngày càng phát triển bền vững, ổn định.
Phóng viên đã có cuộc phỏng vấn với Bộ trưởng Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội Đào Ngọc Dung về kết quả thực hiện các chính an sinh xã hội, việc làm năm 2022 và mục tiêu xây dựng thị trường lao động năm 2023.
Bộ trưởng Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội Đào Ngọc Dung
Những chính sách chưa có tiền lệ
PV: Thưa Bộ trưởng, có lẽ chưa bao giờ doanh nghiệp và người lao động lại nhận thức được vai trò quan trọng của các chính sách an sinh xã hội như khi trải qua đại dịch Covid-19 và khó khăn về kinh tế như hiện nay. Vậy xin Bộ trưởng cho biết những kết quả từ các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp và người lao động được thực hiện trong thời gian qua như thế nào?
Bộ trưởng Đào Ngọc Dung: Chúng ta đã trải qua năm 2022 có rất nhiều biến động và diễn biến khó lường ở trong nước cũng như trên thế giới, đặc biệt là hậu quả của đại dịch COVID-19 và tình hình khó khăn trong sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp đã ảnh hưởng rất lớn đến đời sống của nhân dân, người lao động. Trong bối cảnh đó, các chính sách an sinh xã hội và sự lãnh đạo linh hoạt, sáng suốt của các cấp ủy Đảng, sự chỉ đạo, điều hành quyết liệt của Chính phủ và Quốc hội, Đảng, Nhà nước đã ban hành rất nhiều chính sách nhằm khôi phục và phát triển kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội và đời sống của nhân dân mà trong đó có nhiều chính sách chưa có tiền lệ.
Chỉ trong ba năm qua, chúng ta đã ban hành hàng chục chính sách để duy trì mặt bằng chung cho đời sống nhân dân, đảm bảo các chính sách đối với người có công, các hộ nghèo, hộ cận nghèo, các đối tượng bảo trợ và hỗ trợ đối với trẻ em bị ảnh hưởng do bị mồ côi do các tác động đại dịch COVID-19. Đặc biệt, trong ba năm qua, từ Nghị quyết 30 của Quốc hội, Chính phủ đã ban hành sáu nghị quyết và quyết định nhằm trực tiếp hỗ trợ người lao động, người dân bị ảnh hưởng bởi đại dịch COVID-19.
Với sáu nghị quyết và quyết định chưa có tiền lệ này, chúng ta đã huy động tới 104.000 tỷ đồng để hỗ trợ 68,67 triệu lượt người và trên 1,4 triệu người sử dụng lao động trong đại dịch COVID-19. Chính thông qua việc hỗ trợ này đã góp phần là khôi phục lại sản xuất, ổn định đời sống nhân dân, đặc biệt là duy trì chuỗi cung ứng lao động trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh, khu công nghiệp. Việc duy trì lực lượng lao động đã góp phần quan trọng vào ổn định và cải thiện từng bước đời sống của nhân dân, của người lao động.
PV: Một điểm rất mới trong việc xây dựng, thực hiện các chính sách hỗ trợ người lao động và doanh nghiệp là việc đổi mới ứng dụng công nghệ thông tin, xây dựng cơ sở dữ liệu để tránh việc chi trả trùng lắp về đối tượng. Vậy Bộ trưởng chia sẻ gì về sự thay đổi trong việc chi trả hỗ trợ này?
Bộ trưởng Đào Ngọc Dung: Khi ban hành các chính sách đặc thù hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động trong đại dịch COVID-19 và hậu COVID-19 thời gian vừa qua chúng ta cải tiến rất nhiều. Cải tiến từ quy trình ban hành văn bản, hồ sơ, thủ tục cho tới việc thực hiện với một tinh thần cố gắng nhanh nhất, gọn nhất và dễ tiếp cận nhất cho người lao động và người sử dụng lao động.
Đặc biệt, điểm mới của hai năm qua là chúng ta đẩy nhanh việc ứng dụng tiến bộ công nghệ vào đây và thực hiện chi trả chủ yếu qua tài khoản của người lao động trên cơ sở các cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, các cơ sở dữ liệu mà ngành bảo hiểm có. Ví dụ như khi thực hiện Nghị quyết 116, chúng ta chi tới 41.000 tỷ đồng nhưng chỉ hỗ trợ trong vòng có ba tháng, nếu như cũng với số tiền này chúng ta thực hiện chi trả thủ công thì có khi mất cả năm mà không xong.
Điều quan trọng là thông qua các cơ sở dữ liệu và tài khoản việc chi trả không chỉ nhanh mà còn minh bạch và khắc phục được tình trạng gian lận và dối trá trong việc tổ chức thực hiện. Đặc biệt, các chính sách đến với người lao động nhanh và đúng thời điểm mà người lao động đang cần.
PV: Thưa Bộ trưởng, bên cạnh những kết quả đạt được, việc xây dựng các chính sách hỗ trợ khẩn cấp sẽ không tránh khỏi những hạn chế. Vậy đâu là những bài học kinh nghiệm cần rút ra để xây dựng, hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội trong thời gian tới?
Bộ trưởng Đào Ngọc Dung: Tôi cho rằng việc xây dựng các chính sách vừa qua là chủ yếu mới chỉ mang tính chất tình thế, trong đó có nhiều chính sách có tính chất là giải quyết những cviệc trước mắt, tức thì. Vấn đề quan trọng hiện nay là chúng ta phải tính đến một bài toán căn cơ, lâu dài hơn trong xây dựng mạng lưới chính sách xã hội hay còn gọi là lưới an sinh xã hội.
Hiện nay, lưới an sinh xã hội của chúng ta đang duy trì sự đảm bảo mức độ hỗ trợ tối thiểu nhưng thời gian tới sẽ phải tính toán tới duy trì mặt bằng, nhưng đòi hỏi cao hơn một bước, đó là các chính sách có thể đảm bảo cho người dân, người lao động được ba yếu tố: Phòng ngừa rủi ro, khắc phục rủi ro và chủ động ứng phó với rủi ro. Khi đó, lưới an sinh của chúng ta và chính sách xã hội của chúng ta đảm bảo bền vững và toàn diện.
Chuẩn bị cho một năm 2023 đầy khó khăn
PV: Cùng việc bảo đảm an sinh xã hội thì ổn định việc làm, thu nhập trong năm 2023 sẽ là vấn đề được đông đảo người lao động quan tâm. Xin Bộ trưởng cho biết Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội sẽ có những giải pháp căn cơ như thế nào để phát triển thị trường lao động trong năm 2023?
Bộ trưởng Đào Ngọc Dung: Năm 2022 và cả cuối năm 2021 - là những năm đã dặt ra thách thức vô cùng lớn khi đại dịch COVID-19 và khủng hoảng kinh tế đã tấn công vào các khu công nghiệp, thành trì quan trọng của nền sản xuất, đặc biệt là tại khu vực phía Nam. Khi đó, điều mà chúng ta lo nhất chính là đứt gãy chuỗi cung ứng lao động.
Thế nhưng bằng rất nhiều cách làm khác nhau và bằng các chính sách khác nhau, sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, đặc biệt là sự nỗ lực của người dân và doanh nghiệp. Đến giờ này thì chúng ta khẳng định rằng chúng ta không những không để đứt gãy chuỗi cung ứng lao động mà đã khôi phục chuỗi cung ứng lao động một cách nhanh chóng và ổn định. Qua tổng kết, chúng tôi thấy rằng thị trường lao động của chúng ta ổn định nhanh hơn so với dự báo của quốc tế và nhanh hơn so với chính dự báo của chúng tôi khoảng 6 tháng.
Đến giờ này, trên quy mô cả nước thị trường lao động chúng ta ổn định tương đối tốt cả về quy mô và chất lượng. Tuy nhiên, vẫn còn có tình trạng thiếu hụt lao động cục bộ, nhất là thiếu hụt lực lượng lao động có trình độ kỹ thuật cao.
Trong những tháng cuối năm 2022 ở 63 tỉnh, thành phố, khoảng trên 600 doanh nghiệp bị ảnh hưởng, thu hẹp đơn hàng khiến khoảng 53.000 lao động mất việc. Tuy nhiên, các doanh nghiệp có nhu cầu tuyển dụng lao động là trên 300.000 lao động. Như vậy, vấn đề quan trọng ở đây là xảy ra tình trạng nơi thì thiếu lao động cục bộ nhưng có nơi thì thừa cục bộ. Do đó cần nhất, điều tiết cung cầu lao động cho phù hợp là vấn đề quan trọng nhất.
Trong năm 2023, dự báo tình trạng thiếu lao động cục bộ sẽ tiếp tục diễn trong quý 1, quý 2. Theo chúng tôi đã tính toán thì, nhu cầu tuyển dụng của các doanh nghiệp khoảng 350.000-400.000 lao động ở các lĩnh vực khác nhau.
Vấn đề quan trọng là các doanh nghiệp phải có bài toán để giữ chân, thu hút người lao động. Đặc biệt, chúng ta phải có bài toán để đào tạo, đào tạo lại lực lượng lao động, đặc biệt là đào tạo đội ngũ có chất lượng cao, những người có kỹ năng cao để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của doanh nghiệp.
PV: Thưa Bộ trưởng, việc gắn kết giữa phát triển thị trường lao động và xây dựng các chính sách hỗ trợ để hai lĩnh vực này cùng tạo nên một hệ thống an sinh xã hội, việc làm, thu nhập ổn định, bền vững cho người lao động sẽ được Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội thực hiện như thế nào trong năm 2023 và thời gian tới?
Bộ trưởng Đào Ngọc Dung: Tôi cho rằng thời gian tới chúng ta sẽ gặp rất nhiều thách thức, áp lực, đặc biệt là trong bão lạm phát của thế giới thế. Trong bối cảnh thu hẹp thị trường lao động, những thách thức với doanh nghiệp sẽ dẫn đến thách thức về lao động và đi liền là thách thức về an sinh xã hội. Do đó, hai vấn đề việc làm và an sinh xã hội sẽ cần giải quyết đồng bộ và đều phải tiến hành đồng thời.
Cụ thể, chúng ta sẽ phải đối mặt với năm vấn đề lớn. Thứ nhất là thời gian tới Việt Nam sẽ là một trong những nước có tốc độ già hóa dân số nhanh nhất, điều này buộc chúng ta phải tính toán đến thị trường lao động, đến việc làm cho người trẻ, cho người cao tuổi có nhu cầu, có sức khỏe để tận dụng tiềm năng của họ.
Vấn đề thứ hai là thách thức từ vấn đề lao động di cư, lao động phi chính thức.
Thứ ba là tác động của biến đổi khí hậu sẽ tác động rất quyết liệt đến thị trường lao động, đến đời sống của người lao động. Chúng ta phải tính toán ngay và đi sớm hơn so với tác động của biến đổi khí hậu.
Thứ tư là vấn đề thị trường lao động đang chuyển đổi, nhất là khu vực nông nghiệp sang khu vực công nghiệp. Hiện nay, việc chuyển đổi này của chúng ta phần lớn là việc làm thiếu bền vững thì chúng ta phấn đấu tới đây là việc làm thỏa đáng và bền vững hơn
Vấn đề thứ năm là chúng ta đặt ra rất nhiều khát và mục tiêu đến năm 2035 nhưng muốn thực hiện được thì việc đầu tiên nhất là phải quan tâm đến vấn đề chuyển đổi nhân lực mà việc huyển đổi này phải đi trước một bước.
Năm 2023 và những năm tới, việc hình thành một thị trường lao động linh hoạt, đồng bộ, hiện đại, bền vững và mang yếu tố hội nhập phải đi cùng với xây dựng và phát triển một hệ thống chính sách an sinh xã hội toàn diện, bao trùm và bền vững. Hai vấn đề này phải được tiến hành đồng bộ. Chúng ta làm một cách căn cơ và quan trọng hơn là xây dựng một khung chính sách đồng bộ, không để xảy ra tình trạng gặp đâu hay đấy và thấy gì khó khăn thì gỡ, mà chúng ta xây dựng chiến lược một bài bản hơn, căn cơ hơn trong thời gian tới.
PV: Với vai trò là tư lệnh ngành lao động-Thương binh và Xã hội, đâu là điều mà Bộ trưởng trăn trở nhất trong việc thực hiện các nhiệm vụ của ngành trong năm 2023?
Bộ trưởng Đào Ngọc Dung: Điều tôi rất mong muốn là chúng ta phải xây dựng được một Nghị quyết chuyên đề về chính sách xã hội với một tầm nhìn thông thoáng hơn, toàn diện hơn, bao trùm hơn đến năm 2035 và tầm nhìn đến 2045. Khi có Nghị quyết này rồi chúng ta thể chế bằng các luật, hệ thống chính sách.
Trong tâm trong năm 2023, cùng với Bộ luật lao động thì sửa hai luật: Luật bảo hiểm xã hội và Luật việc làm sẽ là yếu tố then chốt nhất của toàn bộ hệ thống lao động việc làm của chúng ta trong thời gian tới.
Đi liền với giải quyết những vấn đề liên quan đến hệ thống chính sách về xã hội thì khi đó chúng ta sẽ đi một cách vững vàng hơn và thể hiện khát vọng của chúng ta thực hiện được phương châm và chỉ đạo của đồng chí Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng: “Chúng ta không hy sinh tiến bộ, công bằng xã hội để đánh đổi lấy phát triển kinh tế đơn thuần”.
Sự tiến bộ, công bằng xã hội phải bắt đầu từ các chính sách, từ những công việc cụ thể với một tư duy, tầm nhìn xa hơn nhưng hành động phải mau lẹ hơn. Chúng ta bắt đầu từ những công việc cụ thể và từ chủ trương xây dựng khung khổ chính sách. Đó là những vấn đề chúng tôi trăn trở hiện nay.
PV: Trân trọng cảm ơn Bộ trưởng!./.
Theo VOV
-
Chăm lo, thực hiện tốt công tác đền ơn đáp nghĩa đối với người có công với cách mạng
-
Lực lượng công an tập trung khắc phục hậu quả mưa lũ
-
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: “Máu đào và sự hy sinh của các Anh hùng liệt sĩ đã tô thắm lá cờ cách mạng vẻ vang, để đất nước ta nở hoa độc lập, kết trái tự do”
-
Giáo hội Phật giáo Việt Nam cùng nhân dân cả nước biến đau thương thành sức mạnh đại đoàn kết của toàn dân tộc
- Lễ an táng Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: Vĩnh biệt người con kiệt xuất của đất mẹ Việt Nam
- Bão số 2 gây mưa lũ, nông dân Sơn La thiệt hại gần 1.900ha lúa mùa
- Gần 1.000 tăng, ni, Phật tử dự lễ tưởng niệm Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Việt Nam Quốc Tự
- Chung tay hỗ trợ xây nhà Đại đoàn kết cho gia đình chính sách ở Bắc Giang
- Lễ truy điệu Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: Trang nghiêm, xúc động, tự hào
- Sơn La cấp điện trở lại cho 15.000 khách hàng bị ảnh hưởng bởi mưa lũ
- Cuối tháng 7, miền Bắc tiếp tục có mưa to trên diện rộng
-
Quy định mới về bảo vệ, khai thác, sử dụng nướcNước là nguồn tài nguyên quý giá, liên quan chặt chẽ đến đời sống, sinh hoạt và sản xuất – đặc biệt là sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên, hiện nay do nhu cầu nước sử dụng cho phát triển không ngừng tăng lên khiến nhiều dòng sông bị suy thoái, ô nhiễm, vì vậy việc bảo vệ, khai thác, sử dụng nước hiệu quả càng trở nên cấp thiết, Luật Tài nguyên nước có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2024 đã quy định rõ về vấn đề này.
-
Chăm lo, thực hiện tốt công tác đền ơn đáp nghĩa đối với người có công với cách mạngThấm nhuần sâu sắc đạo lý, truyền thống tốt đẹp của dân tộc và lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, 77 năm qua, Đảng, Nhà nước và Nhân dân Việt Nam luôn quan tâm, chăm lo, thực hiện tốt công tác đền ơn đáp nghĩa đối với người có công với cách mạng và thân nhân.
-
Đề xuất quy trình xây dựng cơ sở dữ liệu giá đấtBộ Tài nguyên và Môi trường đang dự thảo Thông tư quy định về quy trình xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về đất đai. Trong đó, Bộ đề xuất quy trình xây dựng cơ sở dữ liệu giá đất.
-
Thủ tướng Phạm Minh Chính tiếp Bộ trưởng Văn phòng Thủ tướng Thái LanNgày 26/7/2024, tại Trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã tiếp xã giao ông Jakkapong Sangmanee, Bộ trưởng Văn phòng Thủ tướng, Đặc phái viên của Thủ tướng Thái Lan nhân dịp sang viếng Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.
-
Lực lượng công an tập trung khắc phục hậu quả mưa lũBộ Công an có Công điện số 06/CĐ-BCA-V01 gửi Thủ trưởng Công an các đơn vị, địa phương về việc tập trung khắc phục hậu quả mưa lũ do ảnh hưởng của bão số 2 và chủ động ứng phó với mưa lũ, sạt lở đất trong thời gian tới.
-
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: “Máu đào và sự hy sinh của các Anh hùng liệt sĩ đã tô thắm lá cờ cách mạng vẻ vang, để đất nước ta nở hoa độc lập, kết trái tự do”Sinh thời, trong quá trình công tác, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng luôn trân trọng, thấu hiểu sự hy sinh và dành tình cảm quan tâm sâu sắc đối với thương binh, người có công với cách mạng, thân nhân gia đình thương binh, liệt sỹ. Sự quan tâm ấy thể hiện đạo lý tốt đẹp “Uống nước nhớ nguồn” của dân tộc Việt Nam bao đời nay.
-
Tình cảm của người dân miền Nam tiếc thương Tổng Bí thư Nguyễn Phú TrọngNhững phút cuối cùng của Lễ viếng Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, dòng người vẫn tiếp tục đổ về Hội trường Thống Nhất, TP Hồ Chí Minh. Ai cũng mong muốn được cúi mình, nói lời tiễn biệt sau cùng trước anh linh người lãnh đạo đáng kính của đất nước.
-
Điện, thư, thông điệp chia buồn Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từ trầnĐược tin đồng chí Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam từ trần, lãnh đạo cấp cao các nước và tổ chức quốc tế; các Đảng cầm quyền, Đảng Cộng sản trên thế giới, các Đảng đối tác, đã gửi các điện, thư, thông điệp chia buồn đến Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch nước Tô Lâm, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính, Nhân dân Việt Nam và gia quyến Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.
-
Lời cảm ơn của Ban Lễ tang Nhà nước và gia đình Tổng Bí thư Nguyễn Phú TrọngNgày 26/7/2024, ngay sau Lễ an táng, Ban Lễ tang Nhà nước và gia đình Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có Lời cảm ơn.
-
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: “Chiếc áo sờn cũ” trong tâm trí nhân dânChiều nay (26/7), hàng triệu trái tim người dân Việt Nam, kiều bào ở nước ngoài và bạn bè quốc tế đã kính cẩn, nghiêng mình, dành những tình cảm đặc biệt để tiễn đưa Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng - Nhà lãnh đạo Đảng đặc biệt xuất sắc, người đảng viên cộng sản kiên trung, người học trò đặc biệt, người hàng xóm thân thiện, tốt bụng… về nơi an nghỉ cuối cùng.
-
1 Thị trường nông sản ngày 1/7: Giá hồ tiêu tiếp tục “nóng”
-
2 Giá xăng dầu đồng loạt tăng từ chiều 4/7
-
3 Giá xăng dầu tiếp đà tăng mạnh chiều 20/6, xăng RON95-III vượt ngưỡng 23.000 đồng/lít.
-
4 Hội Nông dân Anh Sơn lan toả cuộc vận động ý nghĩa "Viên gạch nghĩa tình"
-
5 Giá xăng dầu đồng loạt giảm từ chiều 11/7