Công ty Phân lân nung chảy Văn Điển

Lúa mùa ở Thái Nguyên được cho “ăn gì” vào cuối vụ?

17:18 09/08/2020 GMT+7

Để chăm sóc, bón thúc cho lúa Mùa cuối vụ, những năm gần đây, nông dân các dân tộc ở tỉnh Thái Nguyên đã bắt đầu quen với việc sử dụng phân bón đa yếu tố NPK Văn Điển chuyên thúc. Sản phẩm này có nhiều ưu điểm vượt trội, phù hợp với đặc điểm của những giống lúa bà con thường trồng.

Nông dân xã Thượng Đình (Phú Bình, Thái Nguyên) sử dụng máy gặt đập liên hợp thu hoạch lúa Mùa sớm. Ảnh A.N

Theo kỹ sư Nguyễn Tiến Chinh – nguyên cán bộ Trung tâm Khuyến nông tỉnh Thái Bình, quá trình sinh trưởng phát triển cây lúa trải qua 2 giai đoạn chính là sinh trưởng sinh dưỡng và sinh trưởng sinh thực, mỗi giai đoạn chiếm khoảng ½ tổng thời gian sinh trưởng. Tương ứng với đó, giai đoạn đầu vụ, cây lúa tập trung đẻ nhánh, phát triển thân, lá, hoạt động quang hợp tạo cơ sở vật chất làm tiền đề cho giai đoạn sau. Giai đoạn sinh trưởng sinh thực tập trung vào làm đòng, trỗ bông và tích lũy dinh dưỡng vào hạt.

Nếu giai đoạn “con gái”, cây lúa khỏe nhất, khả năng chống chịu tốt nhất thì giai đoạn làm đòng, trỗ bông, sức chống chịu của cây lúa kém nhất, dễ nhiễm sâu bệnh hại và cũng dễ chịu tac hại của điều kiện ngoại cảnh bất thuận. Mặt khác, giai đoạn đầu cây lúa còn có thể có sự đền bù, nhưng giai đoạn sau không chỉ không còn cơ hội đền bù, mà còn trực tiếp ảnh hưởng đến năng suất và chất lượng thu hoạch. Vì vậy, việc chăm sóc lúa giai đoạn cuối vụ phải tính toán cho tương thích với đặc điểm từng giai đoạn để đạt hiệu quả cao nhất.

Nông dân Thái Nguyên thường cấy các giống lúa gì?

Do cơ chế thị trường, cơ cấu giống lúa và mùa vụ gieo cấy lúa mùa giữa các vùng, các địa phương ở Thái Nguyên không giống nhau. Để cho năng suất cao, chất lượng tốt, những đồng ruộng thâm canh ở các huyện vùng thấp như  Phú Bình, thị xã Phổ Yên, Sông Công… thường gieo cấy sớm với các giống lúa cảm ôn, cả lúa thuần, lúa lai. Một số nơi do địa hình thấp trũng hoặc khó tiêu nước thường cấy nhóm giống lúa chịu úng trung ngày, các  huyện vùng cao vẫn cấy lúa dài ngày, cao cây như nếp vải, nếp thầu dầu… Đối với vùng đất đặc thù, nông dân gieo cấy muộn với các giống lúa cảm quang như lúa đặc sản bao thai Định Hóa- Thái Nguyên.

Nhìn chung, diện tích cấy lúa cảm quang không nhiều, chủ yếu nông dân Thái Nguyên vẫn cấy các giống lúa cảm ôn. Đây là những giống lúa cấy được cả 2 vụ trong năm, khi cây lúa “tích” đủ nhiệt (tích ôn hữu hiệu) cây lúa sẽ làm đòng, trỗ bông. Như vậy, thời gian sinh trưởng vụ Xuân dài hơn vụ Mùa, và vụ Xuân gieo cấy muộn, vụ Mùa gieo cấy sớm dễ cho năng suất cao hơn. Thông thường gieo cấy mùa sớm và mùa trung vào cuối tháng 6, đầu tháng 7 để lúa làm đòng, trỗ bông vào cuối tháng 8 và nửa đầu tháng 9.

Các huyện Định Hóa, Võ Nhai… đang mở rộng diện tích cấy lúa đặc sản, thuộc nhóm các giống lúa cảm quang (lúa Bao thai, Mộc tuyền…). Những giống lúa này ít cảm ứng với nhiệt độ mà cảm ứng mạnh với độ chiếu sáng trong ngày (ngày ngắn, ngày dài). Ngày được tính từ lúc mặt rời mọc đến lúc mặt trời lặn, đêm tính từ khi mặt trời lặn đến khi mọc. Như vậy tiết Hạ chí có ngày dài nhất, đêm ngắn nhất; tiết Đông chí có đêm dài nhất, ngày ngắn nhất. Các tiết Xuân phân và Thu phân có ngày và đêm bằng nhau.

Các giống lúa cảm quang thường làm đòng, trỗ bông vào thời gian mà độ dài ngày và đêm tương đương nhau. Như vậy các giống lúa Bao thai, Tám xoan, Nếp cái hoa vàng… dù cấy sớm hay muộn cũng sẽ phân đòng vào xung quanh tiết Bạch lộ (đầu tháng 9) và trỗ bông vào xung quanh tiết Hàn lộ (8/10). “Hàn lộ lúa trỗ bằng đầu, Lập Đông ta quyết về mau gặt mùa”

Mặt khác, các giống lúa cảm quang, giống dài ngày thường trải qua giai đoạn đứng cái  là giai đoạn trung gian giữa sinh trưởng sinh dưỡng và sinh thực. Đây là thời điểm thích hợp chăm sóc lúa giai đoạn cuối vụ. Cây lúa bước sang giai đoạn sinh thực đòi hỏi dinh dưỡng nhiều hơn nhưng khả năng chống chịu sâu bệnh và ngoại cảnh bất thuận kém hơn.

Phân bón NPK-12-5-10 dùng bón thúc cho lúa.

Cách sử dụng phân bón Văn Điển cho lúa mùa ở Thái Nguyên

Để đáp ứng nhu cầu trên, theo kỹ sư Nguyễn Tiến Chinh, với từng nhóm giống lúa, mùa vụ, thời vụ khác nhau mà có chế độ chăm sóc cuối vụ khác nhau:

+ Thời điểm bón phân cuối vụ mùa:

– Các giống lúa cảm ôn trung và ngắn ngày thường không thể hiện rõ giai đoạn đứng cái; thời điểm chuyển sang giai đoạn sinh thực được tính từ khi bộ lá lúa đứng hơn, các lá “bằng đầu” hoặc khi lúa bắt đầu cứng gốc, tròn gốc. Hơn nữa, lúa được cấy sớm sẽ trỗ sớm, lúa trỗ sớm dễ gặp mưa bão và các đối tượng sâu bệnh phát sinh gây hại, đặc biệt rầy nâu và bệnh bạc lá vi khuẩn. Nhóm giống lúa này nên bón thúc sớm và kết thúc bón thúc sớm, không nên bón phân muộn, nhất là khi có cảnh báo còn mưa nhiều. Đợt bón phân muộn nhất – bón thúc cuối vụ sau cấy khoảng 25 ngày, nếu cấy khoảng 10-20/7 thì bón phân thúc cuối vụ trước ngày 10 -15/8.

– Các giống lúa dài ngày cần chăm sóc cuối vụ, đặc biệt nhóm giống lúa cảm quang. Lượng mưa ở Thái Nguyên thường giảm dần từ cuối tháng 9, gió heo may về sớm quanh tiết Hàn lộ… là những bất thuận cho rầy nâu và vi khuẩn bạc lá phát sinh gây hại. Vì vậy cuối tháng 8, đầu tháng 9 khi lúa chuẩn bị hoặc bắt đầu đứng cái cần bón thêm phân cuối vụ để nuôi đòng, nuôi hạt.

+ Loại và lượng phân bón thúc cuối vụ:

Lúc này thân lá đã phát triển mạnh nên dễ bị đổ ngã khi gặp gió to; hơn nữa cần tăng hiệu suất quang hợp cuối vụ và tăng vận chuyển dòng nhựa nguyên, nhựa luyện trong cây  nên cần lượng kali cao hơn. Để tăng sức sồng hạt phấn, tăng số hạt mẩy và tăng chất lượng cơm gạo cần cung cấp đầy đủ dinh dưỡng trung- vi lượng.

Trên thị trường phân bón hiện nay, phân bón đa yếu tố (ĐYT) NPK Văn Điển chuyên bón thúc cho lúa chứa đầy đủ các chất dinh dưỡng trong nhiều loại công thức khác nhau như:

Phân đa yếu tố NPK(16 :5 :17) có hàm lượng N 16%, P2O5 5%. K2O 17% Mg 5%, SiO2 7%, CaO  8%, S 2%,…   ;

Phân bón NPK 12 :5 :10 có hàm lượng N12%, P2O5 5%, K2O 10%,   Mg2%, SiO2 4%, CaO 5%…

Hiện nay nhiều nơi bà con thường sử dụng phân bón công thức NPK  13:3:10 +TE.

Những loại phân bón này, ngoài việc cân đối các chất NPK theo nhu cầu cây lúa, còn đủ mặt các chất trung, vi lượng giúp cây lúa sinh trưởng khỏe mạnh, chống chịu tốt với sâu bệnh và môi trường bất thuận, tạo cho bông to, nhiều hạt mảy, chất lượng gạo ngon.

Lượng phân bón thúc cuối vụ không cần nhiều, chủ yếu cần cân đối dinh dưỡng. Trên chân ruộng cao, cây lúa có biểu hiện thiếu ăn như bỏ lá chân, lá ngắn, hẹp… mỗi sào có thể bón 3-5kg phân đa yếu tố NPK Văn Điển chuyên bón thúc lúa. Ruộng lúa bao thai, lúa nếp cao cây… cần bón 2—3kg phân đa yếu tố NPK Văn Điển chuyên bón thúc lúa trộn với 2kg phân kali, vãi đều cho 1 sào lúa.

Phân bón NPK-16-5-17-chuyên bón thúc cho lúa. Ảnh Tư liệu

Một số lưu ý khi bón phân cho lúa vụ mùa

– Vụ mùa  2020 được dự báo có thể mưa bão nhiều, thời tiết  còn nhiều diễn biến phức tạp, khó lường dễ gây hại cho lúa Mùa, nhất là giai đoạn cuối vụ. Để chủ động né tránh bất thuận, chỉ nên bón thúc cuối vụ cho lúa Mùa bằng phân bón đa yếu tố NPK Văn Điển chuyên bón thúc lúa, có thể trộn thêm 1-2kg ka ly, tuyệt đối không được bón thêm phân đạm hoặc các loại phân bón giàu đạm.

– Để giảm bớt thất thoát phân bón do hiện tượng bốc hơi, rửa trôi hay thẩm lậu…, không nên bón phân thúc khi trời nắng nóng  và khi ruộng nhiều nước. Nên bón phân lúc chiều mát khi thân lá lúa khô, trời có gió nhẹ; tránh làm hạt kali đọng trên bẹ lá dễ làm cháy bẹ lá, đứt mạch dẫn trên thân, lá lúa.

Để đảm bảo an toàn cho lúa mùa năm 2020 với mức năng suất phấn đấu, việc chăm bón cuối vụ tốt nhất sử dụng phân bón đa yếu tố NPK Văn Điển chuyên bón lót lúa, không bón thêm phân đơn, không bón phân muộn nhất là với các giống lúa cảm ôn sẽ giúp lúa vụ mùa phát triển cân đối, khỏe mạnh; màu sắc lá không xanh đen, ít sâu bệnh hại, lúa đứng cây, ít đổ ngã, bộ lá lúa vàng tươi đến khi bông lúa chín hoàn toàn.

Trọng Hòa – Nam Phong