Công ty Phân lân nung chảy Văn Điển

Một số góp ý vào Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi)

GS.TS. Trần Đức Viên - 07:04 27/03/2023 GMT+7
(Tapchinongthonmoi.vn) - Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) đã kế thừa Luật Đất đai năm 2013 và đã sửa đổi, bổ sung nhiều điều, nhiều nội dung nhằm góp phần sử dụng đất đai hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước, đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích của người sử dụng đất đai, cũng như hạn chế các tiêu cực, vi phạm pháp luật trong quản lý và sử đất đai. Sau khi nghiên cứu Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) xin có một số ý kiến như sau:

GS.TS. Trần Đức Viên.

Một số điểm mới của Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) so với Luật Đất đai năm 2013 
Quy định cụ thể quyền và trách nhiệm của Nhà nước; quyền và nghĩa vụ của công dân đối với đất đai: Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) đã hoàn thiện các chế định về quyền của Nhà nước, xác định trách nhiệm của các cơ quan trong việc quy hoạch, kế hoạch, xác định mục đích, hạn mức và thời hạn sử dụng đất. Ngoài ra, Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) cũng quy định cụ thể trách nhiệm của Nhà nước đối với người sử dụng đất, đặc biệt là trách nhiệm của Nhà nước về đất đai đối với đồng bào dân tộc thiểu số, đồng thời quy định cụ thể hơn về quyền, nghĩa vụ của người sử dụng đất.

Đổi mới và nâng cao chất lượng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất: Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) bổ sung, hoàn thiện các quy định về nguyên tắc bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ giữa các quy hoạch quốc gia cũng như quy hoạch sử dụng đất và các quy hoạch ngành, lĩnh vực có sử dụng đất; hệ thống quy hoạch sử dụng đất bảo đảm đồng bộ ba cấp gồm cấp quốc gia, cấp tỉnh và cấp huyện đáp ứng yêu cầu thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nhanh, bền vững; bảo đảm quốc phòng, an ninh; bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu, trong đó quy hoạch sử dụng đất cấp huyện được lập chi tiết đến từng thửa đất. Ngoài ra, nội dung quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất phải thể hiện được chỉ tiêu, không gian sử dụng đất; xác định khu vực sử dụng đất cần bảo vệ nghiêm ngặt, khu vực cần giữ ổn định, khu vực phát triển; định hướng phát triển các khu đô thị, khu công nghiệp, khu thương mại dịch vụ; đổi mới về phương pháp lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất.
Hoàn thiện các quy định về giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất: Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) quy định việc giao đất, cho thuê đất thực hiện chủ yếu thông qua đấu giá quyền sử dụng đất, đấu thầu dự án có sử dụng đất; các trường hợp, điều kiện, tiêu chí giao đất, cho thuê đất không thông qua đấu giá, đấu thầu các dự án có sử dụng đất được quy định cụ thể. Ngoài ra, Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) đã quy định phân cấp cho Hội đồng Nhân dân cấp tỉnh quyết định giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất trồng lúa, đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng, đất rừng sản xuất sau khi có Nghị quyết của Hội đồng Nhân dân cấp tỉnh thông qua và phù hợp với quy định tại Điều 116 của Luật này (Khoàn 1 Điều 122). Theo Luật Đất đai hiện hành, tại Điểm a Khoản 1 Điều 58 quy định đối với dự án có sử dụng đất trồng lúa, đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng vào các mục đích khác mà không thuộc trường hợp được Quốc hội quyết định, Thủ tướng Chính phủ chấp thuận chủ trương đầu tư thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền chỉ được quyết định giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất đối với trường hợp chuyển mục đích sử dụng từ 10 ha đất trồng lúa trở lên; từ 20 ha đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng trở lên sau khi có văn bản chấp thuận của Thủ tướng Chính phủ. Quy định này gây khó khăn cho nhà đầu tư tiếp cận đất đai do trình tự thủ tục kéo dài.
Hoàn thiện và quy định cụ thể hơn về thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư: (i) Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) đã quy định cụ thể các trường hợp Nhà nước thu hồi đất để thực hiện các dự án phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng; (ii) Quy định Ủy ban Nhân dân cấp huyện có thẩm quyền thu hồi đất trong khu vực có cả đối tượng sử dụng đất là tổ chức, tổ chức tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức nước ngoài có chức năng ngoại giao, tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, trừ trường hợp thu hồi đất ở của người Việt Nam định cư ở nước ngoài được sở hữu nhà ở tại Việt Nam; hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư; thu hồi đất ở của người Việt Nam định cư ở nước ngoài được sở hữu nhà ở tại Việt Nam; Thu hồi đất nông nghiệp thuộc quỹ đất công ích của xã, phường, thị trấn (Điều 82). Theo quy định của Luật Đất đai hiện hành, thu hồi đất nông nghiệp thuộc quỹ đất công ích của xã, phường, thị trấn thuộc thẩm quyền của Ủy ban Nhân dân cấp tỉnh (Điểm b Khoản 1 Điều 66 Luật Đất đai năm 2014). Trường hợp trong khu vực thu hồi đất có cả đối tượng là tổ chức, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức nước ngoài có chức năng ngoại giao, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trừ trường hợp thu hồi đất ở của người Việt Nam định cư ở nước ngoài được sở hữu nhà ở tại Việt Nam; thu hồi đất nông nghiệp thuộc quỹ đất công ích của xã, phường, thị trấn; Thu hồi đất đối với hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư; thu hồi đất ở của người Việt Nam định cư ở nước ngoài được sở hữu nhà ở tại Việt Nam thì Ủy ban Nhân dân cấp tỉnh quyết định thu hồi đất hoặc ủy quyền cho Ủy ban Nhân dân cấp huyện quyết định thu hồi đất (Khoản 3 Điều 66 Luật Đất đai năm 2013; (iii) Nhà nước thu hồi đất đối với tất cả các dự án khai thác khoáng sản (Điểm c Khỏa 3 Điều 78). Theo Luật Đất đai hiện hành, đối với trường hợp khai thác khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường, than bùn, khoáng sản tại các khu vực có khoáng sản phân tán, nhỏ lẻ và khai thác tận thu khoáng sản thì chủ đầu tư phải thỏa thuận với người sử dụng đất để có đất thực hiện dự án gây nhiều khó khăn trong quá trình thực hiện; (iv) Ngoài ra, Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) đã quy định cụ thể trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư bảo đảm công khai, minh bạch trong thực thi và giám sát.  
Hoàn thiện cơ chế xác định giá đất theo nguyên tắc thị trường: Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) đã bỏ khung giá đất và quy định bảng giá đất được xây dựng định kỳ hàng năm. Đây là điểm mới đáng chú ý nhất để hạn chế các vấn đề phát sinh khiếu nại, khiếu kiện trong công tác thu hồi đất thời gian qua vì khung giá đất xây dựng không theo kịp giá thị trường. Ngoài ra, Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) cũng bổ sung và phân cấp thẩm quyền quyết định giá đất cụ thể cho UBND cấp huyện. Tại Khoản 2 Điều 155 quy định ”Ủy ban Nhân dân cấp huyện quyết định giá đất cụ thể đối với trường hợp giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất, công nhận quyền sử dụng đất, gia hạn sử dụng đất, điều chỉnh quy hoạch xây dựng chi tiết, thu hồi đất thuộc thẩm quyền của Ủy ban Nhân dân cấp huyện”. Quy định này là phù hợp với quy định về thẩm quyền ban hành các quy định giao đất, thuê đất, thu hồi đất, đồng thời để UBND cấp huyện chủ động hơn trong việc xác định giá đất cụ thể góp phấn đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng thực hiện các dự án đầu tư phục vụ phát triển kinh tế, xã hội vì lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng…
Hoàn thiện chế độ sử dụng đất: Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) hoàn thiện chế độ sử dụng đất theo hướng mở rộng đối tượng, hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp. Đồng thời, quy định cụ thể việc quản lý, sử dụng đất do các công ty nông, lâm nghiệp quản lý, sử dụng và ưu tiên giao đất, cho thuê đất đối với đồng bào dân tộc thiểu số theo quy định tại khoản 3 Điều 17 của Luật này (Điều 175).
Tăng cường và hoàn thiện giám sát; thanh tra, kiểm tra; giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về đất đai: Bổ sung quy định kiểm toán, kiểm tra chuyên ngành về đất đai; sửa đổi quy định về theo dõi và đánh giá đối với quản lý và sử dụng đất đai và trách nhiệm quản lý hệ thống theo dõi và đánh giá; quy định thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai và tài sản gắn liền với đất do Tòa án nhân dân giải quyết theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.

Ảnh minh họa.

Góp ý cụ thể cho Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) 
Chương II. Quyền và trách nhiệm của nhà nước, công dân đối với đất đai

Để thể hiện cụ thể, rõ ràng hơn trách nhiệm của Nhà nước về đất đai đối với đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS), Khoản 1 Điều 17 quy định “Có chính sách về đất ở, đất sinh hoạt cộng đồng cho đồng bào dân tộc thiểu số phù hợp với phong tục, tập quán, bản sắc văn hóa và điều kiện thực tế của từng vùng” nên sửa đổi và bổ sung như sau: “Nhà nước bảo đảm về đất ở, đất sinh hoạt cộng đồng cho đồng bào dân tộc thiểu số phù hợp với phong tục, tập quán, bản sắc văn hóa và điều kiện thực tế của từng vùng, từng dân tộc”. 
Khoản 2 Điều 17 quy định “2. Có chính sách tạo điều kiện cho đồng bào DTTS có đất để sản xuất, kinh doanh, đảm bảo sinh kế thông qua các chính sách:” nên sửa đổi và bổ sung như sau “2. Nhà nước bảo đảm ưu tiên cho đồng bào dân tộc thiểu số có đất để sản xuất, kinh doanh, đảm bảo sinh kế thông qua các hình thức:” để bảo đảm tính thống nhất với nhiệm vụ, giải pháp của Nghị quyết 18-NQ/TW về hoàn thiện cơ chế, chính sách quản lý, sử dụng đất nông nghiệp đối với đồng bào DTTS “Có chính sách phù hợp để ưu tiên giao đất cho đồng bào dân tộc thiếu đất sản xuất, cùng với các cơ chế hiệu quả để ngăn chặn người dân chuyển nhượng sau khi được giao đất”.
Điểm a Khoản 2 Điều 17 “Giao đất lần đầu không thu tiền sử dụng đất trong hạn mức đối với những đồng bào DTTS chưa được giao đất để sản xuất, kinh doanh” nên bổ sung trường hợp đồng bào DTTS được giao đất để sản xuất, kinh doanh nhưng chưa đủ hạn mức nếu có nhu cầu và địa phương có quỹ đất thì được giao thêm đất không thu tiền sử dụng đất cho đủ hạn mức.
Chương III. Quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất
Khoản 1 Điều 28 quy định “1. Người sử dụng đất được thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất theo quy định của Luật này. ”, đề nghị bổ sung thêm quyền “Góp quyền sử dụng đất” cho phù hợp với Khoản Điểm h Khoản 2 Điều 40 và Điều 210.
Khoản 3 Điều 52 quy định về trường hợp cá nhân chuyển nhượng, tặng cho quyền sử dụng đất có điều kiện “3. Cá nhân là DTTS sử dụng đất do Nhà nước giao đất theo chính sách hỗ trợ của Nhà nước thì được chuyển nhượng, tặng cho quyền sử dụng đất sau 10 năm, kể từ ngày có quyết định giao đất theo quy định của Chính phủ. Cá nhân là dân tộc thiểu số không có nhu cầu sử dụng đất được Nhà nước cho thuê thì phải trả lại đất cho Nhà nước, Ủy ban Nhân dân cấp huyện nơi có đất xem xét giao đất cho người có nhu cầu sử dụng tại địa phương” nên bổ sung và cho phép cá nhân là DTTS không có nhu cầu sử dụng đất được Nhà nước cho thuê được cho thuê lại đất, khi không có nhu cầu cho thuê lại thì mới trả lại đất cho Nhà nước. Bên cạnh đó, cần nghiên cứu đưa ra các mốc thời hạn cụ thể đối với đồng bào DTTS được phép chuyển nhượng, tặng cho quyền sử dụng đất phù hợp với từng nhóm đối tượng, hoàn cảnh cụ thể.
Chương V. Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
Điểm b Khoản 7 Điều 65 quy định: “Danh mục các công trình, dự án đã có trong kế hoạch đầu tư công trung hạn; công trình, dự án đã có chủ trương đầu tư; công trình ngầm, công trình trên không mà không có cùng mục đích với mục đích sử dụng đất tầng bề mặt; diện tích đất để đấu giá quyền sử dụng đất, các dự án thu hồi đất trong năm, dự án tái định cư, đất sản xuất dự kiến bồi thường cho người có đất thu hồi và phải được xác định rõ vị trí, ranh giới, diện tích đến từng thửa đất trên bản đồ địa chính” cần xem xét điều chỉnh cho phù hợp đối với từng loại công trình, dự án, cụ thể đối với các công trình, dự án quy hoạch dạng diện (1 vùng, 1 khu vực) thì bắt buộc phải xác định vị trí, ranh giới, diện tích đến từng thửa đất trên bản đồ địa chính, còn đối với các công trình, dự án dạng tuyến (như đường giao thông, hệ thống thuỷ lợi...) thì có thể không bắt buộc vì gặp nhiều khó khăn trong quá trình thực hiện.
 Điểm b Khoản 3 Điều 68 quy định: “b. Việc tổng hợp, tiếp thu, giải trình ý kiến và hoàn thiện phương án quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất được thực hiện trước khi trình Hội đồng thẩm định quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất và phải công bố, công khai ý kiến đóng góp và việc tiếp thu, giải trình ý kiến đóng góp trên trang thông tin điện tử của cơ quan lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cấp huyện” cần bổ sung thêm hình thức công khai ý kiến đóng góp và việc tiếp thu, giải trình ý kiến đóng góp trên trang thông tin điện tử của Ủy ban Nhân dân cấp xã và niêm yết công khai tại trụ sở Ủy ban Nhân dân cấp xã.
Ngoài ra, cần phải quy định cụ thể thời gian lập, hoàn thành và phê duyệt quy quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của các cấp để hạn chế việc phải thực hiện điều chỉnh quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cấp tập như hiện nay. Ngoài ra, cũng cần phải quy định thời gian cụ thể về việc phân bổ chỉ tiêu sử dụng đất cấp trên cho cấp dưới để làm cơ sở lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cấp dưới.
Chương VI. Thu hồi đất, trưng dụng đất
Điều 80 quy định các trường hợp thu hồi đất do vi phạm pháp luật về đất đai, điểm b khoản 1 quy định “b. Người sử dụng đất cố ý hủy hoại đất và đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi hủy hoại đất mà tiếp tục vi phạm” nên chỉnh sửa như sau “b. Người sử dụng đất hủy hoại đất và đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi hủy hoại đất mà tiếp tục vi phạm” vì hành vi “cố tình” là rất khó xác định trong thực tế. Điềm e Khoản 1 quy định “e. Đất không được chuyển quyền sử dụng đất theo quy định của Luật này mà người sử dụng đất do thiếu trách nhiệm để bị lấn, chiếm”, đề nghị quy định đối với tất cả các loại đất mà không quy định riêng cho đất không được chuyển nhượng quyền sử dụng đất để đảm bảo sự công bằng trong sử dụng đất. 
Điểm b khoản 3 Điều 85 quy định: “Cơ quan có thẩm quyền thẩm định phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư trước khi trình Ủy ban Nhân dân cấp có thẩm quyền quyết định thu hồi đất” cần quy định cụ thể cơ quan có thẩm quyền thẩm định phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư là cơ quan nào, và phải đáp đứng được những điều kiện, tiêu chí như thế nào?
Chương VII. Bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất 
Khoản 2. Điều 89 quy định “Việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất phải bảo đảm người có đất bị thu hồi có chỗ ở, đảm bảo thu nhập và điều kiện sống bằng hoặc tốt hơn nơi ở cũ”. Cụm từ “bằng hoặc tốt hơn nơi ở cũ” rất chung chung, đề nghị cần làm rõ hơn tiêu chí bằng hoặc tốt hơn cụ thể là như thế nào?
Khoản 2. Điều 89 quy định “3. Việc bồi thường về đất được thực hiện bằng việc giao đất có cùng mục đích sử dụng với loại đất thu hồi, nếu không có đất để bồi thường thì được bồi thường bằng tiền theo giá đất cụ thể của loại đất thu hồi do Ủy ban Nhân dân cấp có thẩm quyền quyết định tại thời điểm phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư”. Để người bị thu hồi không gặp khó khăn khi phải trả tiền sử dụng đất trong trường hợp được bồi thường bằng đất, đề nghị bổ sung thêm về giá trị của thửa đất bồi thường tương đương với giá trị thửa đất bị thu hổi.
Ngoài các quy định bồi thường về vật chất (như bồi thường về đất, tài sản gắn liền với đất; bồi thường thiệt hại do ngừng sản xuất, kinh doanh Dự thảo luật cũng cần bổ sung quy định về bồi thường thiệt hại, tổn thất về tinh thần do thay đổi nơi sống và sản xuất.
Chương IX. Giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất
Tại Điều 117 quy định về giao đất, cho thuê đất đối với đất đang có người sử dụng cho người khác: “Nhà nước quyết định giao đất, cho thuê đất đối với đất đang có người sử dụng cho người khác chỉ được thực hiện sau khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định thu hồi đất và phải thực hiện xong việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư theo quy định của pháp luật”. Đề nghị xem xét bỏ vì để giao đất, cho thuê đất cho các đối tượng sử dụng thì đất đó phải là đất sạch (đã giải phóng mặt bằng).
Khoản 2 và Khoản 3 Điều 120 quy định về các hình thức Nhà nước cho thuê đất thu tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê và Nhà nước cho thuê đất thu tiền thuê đất hàng năm. - Khoản 2 Điều 120. quy định: “2. Nhà nước cho thuê đất thu tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê trong các trường hợp sau đây: a) Sử dụng đất để thực hiện dự án đầu tư sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối; b) Sử dụng đất khu công nghiệp, cụm công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao” và tại khoản 3 quy định “3. Nhà nước cho thuê đất thu tiền thuê đất hàng năm trong các trường hợp sau đây: a) Các trường hợp không thuộc quy định tại khoản 2 Điều này; b) Các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này mà có nhu cầu trả tiền thuê đất hàng năm”. Đề nghị xem xét gộp thành 1 khoản và nghi như sau: “2. Người thuê đất được trả tiền một lần cho cả thời gian thuê hoặc hàng năm” vì bản chất quy định tại Khoản 2 và Khoản 3 Điều này quy định người thuê đất có thể được lựa chọn hoặc hình thức thuê đất trả tiền một lần cho cả thời gian thuê hoặc hình thức thuê đất trả tiền hàng năm.
Chương XI. Tài chính về đất đai, giá đất 
Bổ sung quy định về thuế thu nhập cá nhân từ chuyển quyền sử dụng đất đối với hộ gia đình, cá nhân được tính theo giá đất quy định trong bảng giá đất để có thông tin trung thực về giá đất giao dịch trên thị trường và tránh khiếu nại, khiếu kiện liên quan đến giá đất ghi trong hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Về nguyên tắc thu hồi đất tại Khoản 1 Điều 153, cần bổ sung nguyên tắc định giá đất “theo mục đích sử dụng đất hợp pháp tại thời điểm định giá”, quy định này nhằm mục đích làm rõ hơn đối với các trường hợp xác định giá đất cụ thể để tính tiền bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất. Ngoài ra, tại điểm b quy định nguyên tắc định giá đất “b) Theo thời hạn sử dụng đất và các yếu tố khác ảnh hưởng đến giá đất” cần sửa đổi, bổ sung như sau “Theo thời hạn sử dụng đất được giao, được thuê hoặc theo thời hạn sử dụng đất còn lại và các yếu tố khác ảnh hưởng đến giá đất”.
Bổ sung khái niệm “Bảng giá đất” vào Điều 154, tương tự bổ sung khái niệm “Giá đất cụ thể” vào Điều 155.
Để đảm bảo tính khách quan và chính xác, cần quy định việc thẩm định bảng giá đất, giá đất cụ thể cũng phải do một cơ quan độc lập với cơ quan Nhà nước thực hiện. Nếu quy định bảng giá đất, giá đất cụ thể do Hội đồng thẩm định giá đất thực hiện thẩm định giá đất như Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) thì trước Hội đồng thẩm định giá đất họp để quyết định giá đất cũng cần phải thuê cơ quan định giá độc lập phản biện Bảng giá đất, giá đất cụ thể đã được xây dựng.
Chương XIII. Chế độ sử dụng các loại đất
Sửa tiêu đề của mục “2. Chế độ sử dụng đất” cho phù hợp với tất cả các nội dung trình bày và không trùng với tên chương.
Khoản 5 Điều 166 quy định: “Thời hạn cho thuê đất thuộc quỹ đất nông nghiệp sử dụng vào mục đích công ích của xã, phường, thị trấn không quá 05 năm” đề nghị xem xét nâng thời hạn sử dụng đất tối thiểu là 10 năm bằng kỳ quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất nhằm bảo đảm cho hộ gia đình, cá nhân thuê đất an tâm đầu tư, ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp. 
Khoản 1 Điều 171 quy định: “Hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp của cá nhân không quá 15 lần hạn mức giao đất nông nghiệp của cá nhân đối với mỗi loại đất quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều 170 của Luật này”, đề nghỉ bỏ việc quy định hạn mức nhận quyển quyền sử dụng đất để giúp người dân thuận tiện thực hiện tích tụ, tập trung đất đai, đồng thời giúp họ có khả năng ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp thì diện tích đất phải đủ lớn. Tuy nhiên, để quản lý, sử dụng đất đai hiệu quả, cần đánh thuế sử dụng đất nông nghiệp.
Khoản d Khoản 1 Điều 192 quy định về người nhận quyền sử dụng đất như sau “Tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được nhận chuyển nhượng vốn đầu tư là giá trị quyền sử dụng đất theo quy định của Chính phủ” đề nghị xem xét bổ sung một số trường hợp mà tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất để thực hiện dự án đầu tư tại các địa bàn  ổn định về chính trị nhằm phát triển kinh tế.