Cần những chính sách đặc thù dựa trên nhu cầu của dân
Chính sách giảm nghèo trong giai đoạn tới sẽ có những điều chỉnh theo hướng tập trung đầu tư cho con người, đặc biệt là người nghèo. Các phương thức hỗ trợ sẽ được đổi mới theo hướng thiết thực, hiệu quả phù hợp với đặc thù từng vùng và từng đối tượng.
Theo Báo cáo đánh giá tác động của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, với chuẩn nghèo mới (áp dụng từ tháng 1.2021) thì cả nước sẽ có khoảng 16,6% hộ dân có thu nhập dưới chuẩn nghèo (gần 4,5 triệu hộ dân, tương ứng với trên 17 triệu người). Trong đó tỉ lệ hộ nghèo là 10,83% và 5,77% là hộ cận nghèo, bao gồm cả 2% hộ nghèo là đối tượng bảo trợ xã hội (người khuyết tật, người cao tuổi, trẻ em…) – đây là nhóm khó có khả năng thoát nghèo.
Nhận diện những hạn chế
Báo cáo kết quả giám sát “Việc thực hiện chính sách, pháp luật về thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia giảm nghèo bền vững trên địa bàn vùng dân tộc thiểu số, miền núi (DTTS,MN) giai đoạn 2012 – 2018”, ông Hà Ngọc Chiến, Chủ tịch Hội đồng Dân tộc, Trưởng Đoàn giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho biết, các chính sách đầu tư phát triển kinh tế – xã hội, giảm nghèo đã tạo ra sự chuyển biến rõ nét về cơ sở hạ tầng, khoảng 25.000 công trình hạ tầng đã được đầu tư, xây dựng trên địa bàn các xã, thôn bản đặc biệt khó khăn vùng DTTS, MN. Tỷ lệ hộ nghèo, nhất là hộ đồng bào DTTS giảm trung bình khoảng 3,5%/năm.
Tuy nhiên, qua giám sát cho thấy còn một số hạn chế, yếu kém. Kết quả giảm nghèo vùng DTTS, MN chưa thực sự bền vững, chất lượng giảm nghèo chưa cao: Hộ nghèo DTTS chiếm tỷ lệ cao so với tổng số hộ nghèo cả nước (52,66%) và chiếm tỷ lệ 27,55% so với tổng số hộ dân tộc thiểu số; tỷ lệ hộ dân tộc thiểu số tái nghèo, phát sinh nghèo, cận nghèo đều cao hơn tỷ lệ chung cả nước.
Về nguyên nhân dẫn đến kết quả giảm nghèo vùng DTTS, MN chưa thực sự bền vững, theo ông Hà Ngọc Chiến, thì một số ít người dân còn tư tưởng trông chờ ỷ lại vào các chính sách trợ giúp của Nhà nước và cộng đồng. Đồng bào DTTS, MN ở các xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn, nhất là các hộ di dân tự do còn thiếu đất ở, đất sản xuất, thiếu phương tiện sản xuất, ảnh hưởng lớn đến công tác giảm nghèo bền vững. Một số chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất còn manh mún, dàn trải, một số chính sách trùng lặp về nội dung và địa bàn, đối tượng thụ hưởng. Cùng với đó, một số chính sách xây dựng và ban hành có định mức thấp, hiệu quả không cao, chậm sửa đổi, bổ sung. Sự phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương trong hoạch định, ban hành chính sách chưa thực sự chặt chẽ, đồng bộ, kịp thời; việc lấy ý kiến tham gia của Hội đồng Dân tộc vào việc xây dựng chính sách giảm nghèo cho vùng DTTS, MN chưa được quan tâm đúng mức, sự tham gia của người dân vào quá trình xây dựng và thực hiện chính sách còn hạn chế. Quy định về chuẩn nghèo còn nhiều điểm chưa phù hợp với thực tế.
Chính sách cần linh hoạt
Tính đến thời điểm 01.4.2020, nước ta có trên 3,6 triệu hộ đồng bào dân tộc thiểu số, chiếm 13,4% tổng số hộ cả nước. Giai đoạn 2016 – 2019, từ ngân sách trung ương, Tiểu Dự án Hỗ trợ phát triển sản xuất thuộc Chương trình 135 (Dự án 2 trong Chương trình MTQG giảm nghèo bền vững) đã hỗ trợ trên 2.944 tỷ đồng, trong đó hỗ trợ sản xuất trên 2.562 tỷ đồng; vốn thực hiện và nhân rộng mô hình giảm nghèo trên 382 tỷ đồng. Bên cạnh vốn ngân sách trung ương, các địa phương đã chủ động đối ứng và huy động nguồn lực của người dân được trên 1.057 tỷ đồng (vốn ngân sách địa phương hỗ trợ trên 951 tỷ đồng, vốn huy động từ dân gần 107 tỷ đồng), vốn lồng ghép với chương trình, chính sách khác trên địa bàn gần 75 tỷ đồng.
Là tỉnh miền núi phía Bắc còn nhiều khó khăn, Sơn La có 5 huyện được thụ hưởng chính sách theo Nghị quyết 30a của Chính phủ. Với việc tập trung thực hiện tốt chính sách giảm nghèo, nhìn chung đời sống kinh tế xã hội của đồng bào các dân tộc ở các huyện 30a trên địa bàn tỉnh Sơn La đã có nhiều chuyển biến tích cực. Đến nay, Sơn La đã hoàn thành xóa nhà tạm trên địa bàn các huyện nghèo; hơn 97% số xã có đường ô tô đến trung tâm xã được nhựa hóa hoặc bê tông hóa, 100% số xã trên địa bàn tỉnh có điện lưới quốc gia, 90,8% số bản có điện phục vụ sinh hoạt và sản xuất; tỷ lệ hộ nghèo bình quân tại các huyện nghèo giảm mạnh.
Tuy nhiên, việc thực hiện chính sách giảm nghèo tại các huyện 30a của Sơn La vẫn còn những hạn chế nhất định; sản xuất hàng hóa chưa phát triển, một số ngành nghề sau khi đào tạo chưa phát huy hiệu quả; việc tiêu thụ sản phẩm vẫn chưa có hướng đi bền vững; kết quả giảm nghèo chưa thực sự bền vững, nguy cơ tái nghèo cao; số hộ nghèo dân tộc thiểu số chiếm tỷ lệ cao; nhu cầu đầu tư lớn, song nguồn lực chưa đáp ứng được, dẫn tới nhiều công trình kéo dài, chậm phát huy hiệu quả; huy động nguồn lực trong dân, trong cộng đồng còn hạn chế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế chậm…
Thực tế cuộc sống ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi đang đòi hỏi cần phải có cơ chế, chính sách phù hợp để giúp đồng bào biến thách thức thành cơ hội thông qua việc nâng cao khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu, chủ động chuyển đổi cơ cấu lao động, đa dạng hóa các loại hình sinh kế nhằm đạt được mục tiêu phát triển bền vững.
Chia sẻ về một số giải pháp trong công tác giảm nghèo giai đoạn 2021 – 2025, ông Tô Đức, Chánh Văn phòng Quốc gia về giảm nghèo (Bộ LĐ-TBXH), cho biết: Thứ nhất, Nhà nước sẽ tập trung ưu tiên nguồn lực đầu tư cho địa bàn miền núi, vùng dân tộc thiểu số. Có chính sách hỗ trợ người dân tiếp cận đầy đủ các dịch vụ xã hội cơ bản về y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch vệ sinh thông qua đầu tư cơ sở hạ tầng thiết yếu, nhất là đường giao thông, điện lưới để kết nối với các khu vực trung tâm, vùng động lực phát triển.
Thứ hai là ưu tiên đào tạo nghề, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho lao động thuộc hộ nghèo, lao động người dân tộc thiểu số; tạo điều kiện cho lao động thuộc hộ nghèo, lao động người dân tộc thiểu số làm việc tại các doanh nghiệp, hỗ trợ điều kiện sinh kế tạo việc làm tại chỗ gắn với chuỗi giá trị.
Thứ ba là nghiên cứu, đề xuất chính sách khuyến khích phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ với vai trò “bà đỡ” cho người nghèo ở khu vực miền núi, vùng đồng bào dân tộc; có chính sách khuyến khích doanh nhân hỗ trợ người nghèo thông qua các hoạt động tiếp nhận lao động nghèo, đào tạo nguồn nhân lực…
Thứ tư là thực hiện cơ chế hỗ trợ trọn gói về tài chính gắn với kết quả đầu ra (Trung ương phân bổ vốn theo tiêu chí, giải ngân theo kết quả đầu ra, theo tiến độ đối ứng của ngân sách địa phương); đẩy mạnh phân cấp, trao quyền cho địa phương không giao chi tiết, cho phép địa phương chủ động xây dựng đề án bố trí vốn thực hiện trên địa bàn; tăng cường sự tham gia của người dân trong suốt quá trình xây dựng và thực hiện chương trình giảm nghèo…
Về những đổi mới trong công tác giảm nghèo giai đoạn tới, ông Tô Đức cho biết, trong bối cảnh kinh tế – xã hội có sự thay đổi nhanh chóng thì cần thiết phải ban hành chuẩn nghèo mới. Trong đó, có nhấn mạnh tới vấn đề thay đổi các mức chuẩn nghèo. Mức chuẩn nghèo dù được nâng lên vẫn tiệm cận với mức sống tối thiểu. Chương trình giảm nghèo không đầu tư dàn trải, ta tập trung vào giảm nghèo vùng lõi nghèo, địa bàn nghèo. Thứ hai là tập trung vào người nghèo, người dân tộc thiểu số, người yếu thế… có khả năng vươn lên thoát nghèo.
Trong giai đoạn 2016-2020, Tổng kinh phí thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia giảm nghèo bền vững được đầu tư 48.397 tỷ đồng. Dự kiến huy động từ các nguồn: Ngân sách Trung ương 41.449 tỷ đồng; Ngân sách địa phương 4.848 tỷ đồng; Vốn huy động hợp pháp khác 2.100 tỷ đồng. (Theo Chương trình mục tiêu Quốc gia về giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016-2020).
Viết Thủy
-
Trang trại bò sữa TH trả về từng giọt nước lành cho Mẹ Thiên nhiên -
Xây dựng nhà ở trái phép trên đất nông nghiệp ở Quảng Ngãi: Chưa thể xử lý vì còn "đợi" Luật Đất đai -
Hải Dương: "Đòn bẩy" giúp phát triển sản xuất nông nghiệp công nghệ cao -
Xây dựng mô hình HTX tạo sự ổn định, bền vững trong sản xuất lúa gạo ở vùng ĐBSCL
- Cam FVF - Điển hình của ứng dụng công nghệ cao vào phát triển nông nghiệp xanh bền vững
- Hà Tĩnh: Hiệu quả “nhìn thấy được” từ những mô hình kinh tế tập thể
- Long An khởi động Đề án phát triển 125.000ha lúa chất lượng cao, phát thải thấp
- Nghệ An: Kịp thời khoanh vùng, chỉ đạo sâu sát khi có dịch bệnh trên vật nuôi ở Nam Đàn
- Nông dân Đồng Tháp chuyển đổi sang sản xuất lúa hữu cơ
- Quảng Nam muốn đưa sâm Ngọc Linh thành sản phẩm chủ lực, thương hiệu quốc gia
- Hà Tĩnh: Chàng trai trẻ khát vọng đưa cây dược liệu về làm giàu trên đất đồi
-
Giải pháp cấp nước sạch nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới ở Kiên GiangĐể sớm hoàn thành tiêu chí nước sạch trong xây dựng nông thôn mới ở tỉnh Kiên Giang và đưa việc thực hiện tiêu chí này đi vào chiều sâu, hiệu quả và bền vững, Trung tâm Nước sạch và Vệ sinh môi trường nông thôn Kiên Giang đã kiến nghị một số giải pháp, trong đó có xã hội hoá các công trình cấp nước sinh hoạt nông thôn tập trung.
-
Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Nhà quân sự thiên tài, nhà văn hóa lớnNgày 26/12/2024, tại Hà Nội, Viện Nghiên cứu Văn hóa và Phát triển (Liên hiệp các Hội khoa học kỹ thuật Việt Nam) tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề: Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Nhà quân sự thiên tài, Nhà văn hóa lớn.
-
Ứng dụng nông nghiệp công nghệ cao trong nông nghiệp, cùng đất nước tiến vào kỷ nguyên vươn mìnhTheo Anh hùng Lao động Thái Hương, Hiệp hội các Doanh nghiệp Ứng dụng Công nghệ cao trong Nông nghiệp (ATE) cần tiếp tục phát huy vai trò liên kết, quy tụ các thành viên đủ “tâm” và “tầm”, thúc đẩy hợp tác, hỗ trợ và giúp đỡ lẫn nhau phát triển, nâng cao hiệu quả trong sản xuất, kinh doanh để có những sản phẩm nông nghiệp chất lượng quốc tế, năng suất, giá trị gia tăng cao, cùng bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
-
Hà Tĩnh: Sẵn sàng cho Lễ Kỷ niệm Ngày sinh Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác(Tapchinongthonmoi.vn) – Thông tin từ UBND tỉnh Hà Tĩnh cho biết, đến nay các hoạt động chuẩn bị cho Lễ kỷ niệm 300 năm Ngày sinh Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác (1724-2024) và trao bằng chứng nhận Di tích Quốc gia đặc biệt Mộ và Khu lưu niệm đã được hoàn tất.
-
10 kết quả nổi bật trên các lĩnh vực của tỉnh Sơn La năm 2024Năm 2024 là một năm nhiều khó khăn, thách thức với Sơn La như thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu, thời tiết diễn biến phức tạp, khó lường… Đặc biệt, cơn bão số 2, số 3 đã ảnh hưởng lớn đến đời sống, hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân. Tuy nhiên, với sự nỗ lực, quyết tâm của cả hệ thống chính trị, tình hình kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại của tỉnh Sơn La ổn định và đạt được nhiều kết quả tích cực, thể hiện trên 10 kết quả nổi bật.
-
Xuất khẩu điều, cà phê cùng đạt mốc hơn tỷ đô trong năm 2024Trong năm 2024, cà phê, hạt điều là những mặt hàng nông sản tăng trưởng tích cực về xuất khẩu thu về 4-5 tỷ USD.
-
Liên Chung: Tập trung phát triển kinh tế nông thôn tạo chuyển biến tích cựcTrong hành trình xây dựng nông thôn mới (NTM) nâng cao năm 2024, xã Liên Chung (huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang) đã có những kết quả nổi bật trong phát triển kinh tế nông thôn, tạo chuyển biến tích cực đóng góp vào sự tăng trưởng chung của kinh tế - xã hội, đồng thời nâng cao thu nhập, đời sống của người dân.
-
“Logo Halal” trên hộp sữa là lời cam kết với người tiêu dùng của VinamilkQuy mô nền kinh tế Halal toàn cầu ước đạt 7.700 tỷ USD vào năm 2025, dự kiến sẽ tăng lên 10.000 tỷ USD vào năm 2028. Ngoài “chứng nhận”, đâu là điều doanh nghiệp cần để khai thác hiệu quả tiềm năng của thị trường này?
-
MobiFone đem tiếng Anh trực tuyến dành cho học sinh tiểu họcCuối năm 2024, MobiFone chính thức ra mắt sân chơi tiếng Anh dành cho học sinh tiểu học lớp 3, 4, 5 mang tên English Beat – Primary.
-
Thêm gần 100 sản phẩm của tỉnh Phú Thọ được công nhận OCOP(Tapchinongthonmoi.vn) - Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn (NN&PT NN) Phú Thọ cho biết: Năm 2024, tỉnh có thêm 99 sản phẩm mới, trong đó có 94 sản phẩm hạng 3 sao do UBND cấp huyện quyết định công nhận và 5 sản phẩm hạng 4 sao do UBND tỉnh quyết định công nhận.
-
1 Năng động, sáng tạo, các cấp Hội trong Cụm thi đua số 2 đạt và vượt nhiều chỉ tiêu thi đua -
2 Tạp chí Nông thôn mới trao tặng quà “Chung tay vì người nghèo- không ai bị bỏ lại phía sau” tại Tuyên Quang -
3 "Dấu ấn" của Cụm thi đua số 3: Nhiều mô hình kinh tế tiêu biểu do nông dân làm chủ -
4 Hội nghị toàn quốc quán triệt, triển khai tổng kết thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW -
5 Cụm thi đua số 4: Tăng cường kết nối giao thương quảng bá, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp và hoạt động an sinh xã hội