Công ty Phân lân nung chảy Văn Điển

Một số đề xuất về quan điểm, chủ trương nhằm nâng cao vị thế của nông dân Việt Nam khi bước vào kỷ nguyên mới

(Tapchinongthonmoi.vn) - Trong suốt gần 40 năm qua, Đảng ta đã chú trọng phát vai trò chủ thể của nông dân, coi nông dân là trung tâm của quá trình phát triển. Thực tiễn phát triển nông nghiệp, nông thôn thời gian qua cũng cho thấy phát huy nguồn lực to lớn trong nông dân, nông thôn có vai trò quyết định.

Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, sự phát triển của đội ngũ nông dân nước ta còn bộc lộ còn nhiều tồn tại, hạn chế. Đồng thời, nhiều bối cảnh mới đang diễn ra cũng đem lại những cơ hội và thách thức cho sự phát triển bền vững của ngành Nông nghiệp và đời sống của nông dân như: Toàn cầu hoá, chuyển đổi số, đô thị hóa và biến đổi khí hậu. Do vậy, cần thiết phải đánh giá được những điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội, thách thức của nông dân Việt Nam. Từ đó, đề xuất một số quan điểm, chủ trương mới giải pháp nhằm hỗ trợ nông dân có thể tự tin bước vào kỷ nguyên mới với nhiều thắng lợi mới.

Việt Nam có nhiều chính sách bảo đảm và thúc đẩy quyền con người trong thực tiễn đổi mới.

Đặt vấn đề

Trong những năm qua, nông nghiệp Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, thể hiện vai trò to lớn đối với phát triển kinh tế và ổn định xã hội, đặc biệt trong các giai đoạn khó khăn của nền kinh tế. Tốc độ tăng trưởng GDP của ngành Nông nghiệp tuy có xu hướng giảm, nhưng vẫn đạt bình quân khoảng 3,27%/năm trong giai đoạn từ 2010 - 2023 (Tổng cục Thống kê, 2023). Nông nghiệp nước ta đang dần hướng tới sản xuất bền vững, tăng cường áp dụng tiêu chuẩn sản xuất theo tiêu chuẩn an toàn, bền vững góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm cả cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Nhiều sản phẩm nông sản đã và đang được xuất khẩu tới nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có những thị trường lớn và có yêu cầu chất lượng cao như EU, Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc... Những mặt mặt hàng chủ lực đem lại kim ngạch xuất khẩu từ 1 tỷ USD trở lên bao gồm: lúa gạo, tôm, cá tra, cao su, hồ tiêu, hạt điều, cà phê, sắn, đồ gỗ… Năng lực cạnh tranh và vị thế của nông sản Việt Nam ngày càng được nâng cao (Bộ NN&PTNT, 2021).

Nhờ sự phát triển của ngành Nông nghiệp, và khu vực kinh tế nông thôn, thu nhập của người dân nông thôn nói chung và nông dân nói riêng đã có những cải thiện đáng kể. Nếu như thu nhập bình quân đầu người/năm ở nông thôn là khoảng 3,480 nghìn đồng/tháng hay tương đương với 41,76 triệu đồng/năm năm 2020, cao hơn gấp 5 lần so với thời điểm năm 2008 (Tổng cục thống kê, 2021). Đặc biệt, chênh lệch thu nhập giữa người lao động ở thành thị và nông thôn có xu hướng suy giảm đáng kể, nếu như năm 2008 mức chênh lệch thể hiện ở thu nhập người lao động ở thành thị gấp 2,11 lần so với thu nhập của người lao động ở nông thôn thì tỷ lệ này năm 2020 giảm xuống còn 1,59 lần, tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh, đời sống của người dân ngày càng được nâng lên, an sinh xã hội được bảo đảm. 

Bên cạnh những thành tựu trên, theo báo cáo đánh giá của Bộ NN&PTNT (2021), sự phát triển của đội ngũ nông dân nước ta còn bộc lộ còn nhiều hạn chế. Đồng thời, nhiều bối cảnh mới đang diễn ra cũng đem lại những cơ hội và thách thức cho sự phát triển bền vững của ngành Nông nghiệp và đời sống của nông dân nước ta như: Toàn cầu hoá, cách mạng công nghiệp (CMCN) 4.0, chuyển đổi số, đô thị hóa và biến đổi khí hậu. 

Do vậy, cần thiết phải đánh giá được những điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội, thách thức của nông dân Việt Nam. Từ đó, để đổi mới, hoàn thiện chủ trương, chính sách, giải pháp nhằm hỗ trợ nông dân có thể tự tin bước vào kỷ nguyên mới với nhiều thắng lợi mới.

Điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội, thách thức của nông dân Việt Nam khi bước vào kỷ nguyên mới
Điểm mạnh của nông dân Việt Nam

Đội ngũ nông dân Việt Nam có số lượng đông, có truyền thống lao động cần cù, sáng tạo nhưng nhân công giá rẻ. Năm 2022, cả nước có 14 triệu lao động nông nghiệp. Giá ngày công lao động ở nông thôn đang dao động trong khoảng từ 300.000 - 500.000 đồng, thấp hơn rất nhiều so với mức giá 10-15 USD/giờ (tương đương 240.000 - 360.000 đồng/giờ) ở các nước phát triển (Tổng cục Thống kê, 2024). 

 Đảng, Nhà nước và các tổ chức quốc tế luôn coi nông dân là chủ thể quan trọng và cần được hỗ trợ. Nhiều chương trình, chính sách được tổ chức thực hiện nhằm hỗ trợ nâng cao năng lực cho nông dân. Tỷ lệ hộ được vay vốn cho hoạt động nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 76,22% trong tổng số hộ ở khu vực nông thôn có nhu cầu vay vốn của hệ thống tín dụng, ngân hàng. Mạng lưới khuyến nông tiếp tục duy trì hoạt động tại các xã, thôn. Năm 2020, cả nước có 6.685 xã có cán bộ khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, chiếm 80,57% tổng số xã khu vực nông thôn; 7.534 xã có cán bộ thú y, chiếm 90,80%. Các lớp tập huấn, mô hình trình diễn về ứng dụng khoa học công nghệ trong sản xuất đã được thực hiện ở khắp các tỉnh, thành trong cả nước. Đặc biệt, với sự hợp tác của các tổ chức quốc tế (FAO/UNDP/WB/CGIAR/IFAD) trong thực hiện các chương trình, dự án hỗ trợ nông dân, nông nghiệp Việt Nam đã đạt được những bước tiến lớn, không chỉ tạo ra của cải, lương thực hoặc nguyên liệu thô mà còn ngăn chặn tình trạng suy giảm đa dạng sinh học, trái đất nóng lên và dịch bệnh trên động vật. Nhờ đó, người nông dân Việt Nam có thể đóng góp vào việc phát triển bền vững “thực phẩm giàu dinh dưỡng, an toàn cho tất cả mọi người” và cho phúc lợi xã hội (Đào Thế Anh et al., 2021).

Nông dân cởi mở với công nghệ số. Theo khảo sát của Hiệp hội Đời sống Cây trồng châu Á, trong quý I/2021, 42% nông dân trồng lúa, rau quả Việt Nam được thăm dò cho biết họ muốn ứng dụng số hóa trong nông nghiệp. So với 3 nước ASEAN trong cùng khảo sát, Việt Nam có tỷ lệ cao nhất. Điều đó cho thấy nông dân Việt Nam quan tâm đến số hóa hơn bất kỳ nơi nào khác trong khu vực (Croplife châu Á, 2021).

Điểm yếu của nông dân Việt Nam

Trình độ thấp, kỹ năng giản đơn, thiếu nền tảng học vấn để học tập nâng cao trình độ, kiến thức khoa học áp dụng trong sản xuất (Phạm Mai Ngọc, 2018). Mặc dù tỷ lệ lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc trong ngành nông, lâm nghiệp, thuỷ sản đã qua đào tạo tăng từ 4,3% năm 2015 lên 4,6% năm 2020 nhưng con số này vẫn rất thấp so với tỷ lệ lao động đã qua đào tạo trong cả nước và vẫn chưa đáp ứng yêu cầu. Nghị quyết 26-NQ/TW đặt ra mục tiêu đến năm 2020 tỷ lệ đào tạo nghề nông thôn đạt trên 50%. Tuy nhiên, kết quả tổng điều tra năm 2020 cho thấy, nếu tính riêng lao động trong lĩnh vực nông, lâm, thuỷ sản, số người trong độ tuổi lao động chưa qua đào tạo là 12,57 triệu người, chiếm 89,97% tổng số lao động. Theo số liệu tuyển sinh của Bộ Giáo dục và Đào tạo, ngành Nông, Lâm, Thủy sản giai đoạn 2010 - 2017 chiếm 2,5% tổng quy mô tuyển sinh. Lao động trong ngành Nông nghiệp chiếm hơn 40% lao động toàn xã hội nhưng chỉ có 7,93% đã qua đào tạo chuyên môn kỹ thuật, trong đó 3,58% đã qua đào tạo nhưng không có bằng, chứng chỉ; 1,87% sơ cấp nghề; 1,24% trung cấp và trung cấp nghề; 0,69% cao đẳng và cao đẳng nghề và 0,46% đại học trở lên…Chất lượng đào tạo nghề thấp chưa tạo ra bước đột phá trong tăng năng suất lao động trong nội ngành, chưa góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động sang ngành, lĩnh vực khác (Nguyễn Thị Hoa, 2022). Đặc biệt, năng suất lao động của nông dân Việt Nam chưa cao bằng các nước trong khu vực và trên thế giới do vậy, gây khó khăn trong việc cảnh tranh trong bối cảnh toàn cầu hoá (Nguyễn Thị Thu Quỳnh et al., 2022).

Bên cạnh đó, năng lực thích ứng với các bối cảnh toàn cầu hoá của nông dân còn chưa cao. Phần đông nông dân chưa đủ năng lực, thói quen tìm hiểu nhu cầu của thị trường để lựa chọn mặt hàng, công nghệ sản xuất, chế biến mà chủ yếu sản xuất theo kinh nghiệm, phong trào dẫn đến hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp. Nông dân chưa tiếp cận được với công nghệ mới tiên tiến trên thế giới cũng như các yêu cầu mới về chất lượng nông sản của người tiêu dùng trong bối cảnh cạnh tranh do toàn cầu hoá mang lại. 

Hiểu biết của người dân nông thôn về công nghệ số còn thấp. Chuyển đổi số được coi là một cuộc cách mạng nhằm thay đổi toàn diện phương thức, hiệu quả sản xuất của nền kinh tế - xã hội các nước, các ngành nghề, lĩnh vực trong đó có ngành Nông nghiệp. Tuy nhiên, ở Việt Nam, đây vẫn là vấn đề mới, nhận thức của nông dân ở các địa phương còn hạn chế.

Tiếp cận dịch vụ tài chính hạn chế. Theo FAO (2019), tiếp cận các dịch vụ và công cụ tài chính là điều cần thiết để các nhà sản xuất đầu tư nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất các hệ thống sản xuất. Tuy nhiên, có rất ít nguồn tài chính các tổ chức trong nước cung cấp dịch vụ cho các nông dân nhỏ. Không có đủ dịch vụ tài chính, các nông hộ nhỏ bị hạn chế trong khả năng đổi mới theo hướng chuyển đổi số của họ.

Nông dân hay bị dao động, tâm lý chưa ổn định trước các tác động của thị trường và biến đổi khí hậu (BĐKH). Do sự thiếu hụt về năng lực, trình độ, kỹ năng nên nhận thức về các xu hướng biến động của thị trường, các biểu hiện của BĐKH, các biện pháp ứng phó với BĐKH còn hạn chế, gây khó khăn cho việc thích ứng. Người nông dân dễ bị tác động bởi các yếu tố về giá cả, thị trường của nông sản do đó việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi nhiều khi còn chạy theo xu thế, chưa thực sự bền vững. Thái độ và hành vi của một bộ phận nông dân Việt Nam tại một số khu vực vẫn còn thờ ơ với biến đổi khí hậu. Nguyên nhân là do họ chưa nhận thức được lợi ích dẫn đến tâm lý e ngại trong đầu tư cho các quy trình sản xuất an toàn, các biện pháp thích ứng biến đổi khí hậu.  

Các đại biểu, Nhân dân tham quan mô hình trình diễn lúa lai 3 dòng ADI 73 tại xã Xuân Quang, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang.

Cơ hội cho nông dân Việt Nam

Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế làm tăng cơ hội việc làm, thu nhập cho nông dân. Đó là cơ hội tiếp cận với những tiến bộ về khoa học - công nghệ hiện đại, tiếp cận với những nguồn tài trợ thuộc các tổ chức quốc tế để phát triển cơ sở hạ tầng, xóa đói giảm nghèo; tiếp cận với nguồn tài trợ phi chính phủ, viện trợ nhân đạo của các tổ chức Liên Hợp quốc. Trong quá trình giao lưu văn hóa, các dân tộc đã gần gũi nhau hơn, địa bàn nông thôn đã được khách du lịch quốc tế quan tâm đến tham quan tìm hiểu, không gian văn hóa nông nghiệp không lắng đọng như trước kia mà đã trở nên sôi động, vui vẻ, hấp dẫn. Nhờ vậy mà kinh tế nông thôn đã khởi sắc hơn. Nhiều hộ nông dân đã mạnh dạn vay vốn ngân hàng đầu tư để phát triển kinh tế trang trại trên một qui mô rộng lớn hàng chục hec-ta. Nhiều hộ gia đình nông dân đã thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn, xây dựng các doanh nghiệp, hợp tác xã tư nhân để có điều kiện tiếp xúc, quan hệ với các đối tác kinh doanh trong nước và quốc tế. 

Cùng với xu hướng toàn cầu hoá, nông dân Việt Nam có cơ hội đi ra nước ngoài làm nông nghiệp. Rất nhiều quốc gia phát triển đang thiếu hụt nguồn lao động làm nông nghiệp. Do vậy đây cũng chính là cơ hội cho nông dân Việt Nam có thể xuất ngoại tìm kiếm việc làm và mang thu nhập về cho gia đình (Thanh Trần, 2022). Đây cũng là một cơ hội giải quyết lao động nhàn rỗi ở khu vực nông thôn, đồng thời mở ra cơ hội tiếp cận với các phương thức sản xuất nông nghiệp tiên tiến, hiện đại ở các nước để mang về áp dụng ở Việt Nam (Báo Nông Nghiệp Việt Nam, 2021).

Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế làm tăng cơ hội học hỏi, tiếp thu khoa học công nghệ mới trên thế giới. Người nông dân Việt Nam cũng sẽ được hưởng nhiều lợi ích hơn trước từ việc được tiếp thu, chuyển đổi các bí quyết công nghệ sinh học để tạo lập ra nhiều loại giống mới cho vật nuôi, cây trồng phù hợp với điều kiện thời tiết, khí hậu nóng ẩm, gió mùa của vùng nhiệt đới nhằm nâng cao năng suất lao động, cải thiện đời sống người nông dân. Nhiều nông dân đã có máy tính, điện thoại thông minh có kết nối hoà mạng toàn cầu để cập nhật thông tin, tìm hiểu thị hiếu khách hàng và những biến đổi của thị trường nông sản để điều chỉnh sản xuất một cách kịp thời. 

Chuyển đổi số đem lại cơ hội tăng cường kết nối giữa người sản xuất và người tiêu dùng thông qua hệ sinh thái thông minh. Từ đó giảm thiểu tình trạng “được mùa mất giá” và “được giá mất mùa”, thúc đẩy sự phát triển hiệu quả và bền vững của nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Công nghệ blockchain giúp người tiêu dùng truy xuất nguồn gốc thực phẩm từ khâu đầu vào tới khi sản phẩm lên kệ bán hàng. Công nghệ này mang lại nhiều lợi ích to lớn như sự chuẩn hóa sản phẩm và dịch vụ, nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ, tăng cường sự minh bạch, giúp tạo lòng tin cho khách hàng.

Đô thị hoá đem lại cơ hội mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm nông sản. Đô thị hoá phát triển nhanh kéo theo sự tập trung dân cư và làm gia tăng nhu cầu về lương thực, thực phẩm, do vậy đây sẽ là thị trường tiềm năng cho tiêu thụ hàng hoá nông sản.

Quá trình đô thị hoá tăng nhanh tạo điều kiện để phát triển tầng lớp nông dân chuyên nghiệp, có trình độ, học thức, kỹ năng tốt trong sản xuất kinh doanh giúp nông dân tổ chức lại trong các cộng đồng, đoàn thể nông dân để thực sự làm chủ cuộc sống của mình, trở thành chủ thể của phát triển nông thôn. Mô hình nông nghiệp đô thị đã đem lại nhiều lợi ích không chỉ về kinh tế mà còn về xã hội và cảnh quan môi trường.

Thách thức cho phát triển bền vững nông dân Việt Nam

Thách thức do làn sóng lao động nông nghiệp trẻ di cư đến các khu đô thị, khu vực ven đô, khu công nghiệp, thậm chí di cư ra nước ngoài do lực hút về việc làm, thu nhập hấp dẫn hơn so với làm nông nghiệp. Do quy mô sản xuất nhỏ, lẻ, lạc hậu, giá trị sản xuất và thu nhập hỗn hợp mà người nông dân nhận được không đủ để đáp ứng các nhu cầu sống. Do vậy, buộc họ phải ly hương để làm ăn xa, tìm kiếm nguồn thu nhập khác thay thế, bổ sung cho thu nhập từ nông nghiệp. Điều này dẫn đến ở các khu vực nông thôn có tình trạng thiếu đội ngũ nông dân trẻ, chuyên nghiệp.

Vị thế và vai trò của người nông dân không được đề cao do cạnh tranh từ thị trường quốc tế. Nguyên nhân được cho là do tác động của toàn cầu hoá, sản phẩm nông nghiệp mà họ làm ra khó cạnh tranh với các sản phẩm nông sản nhập khẩu. Mặt khác, do quá chạy theo thị trường xuất khẩu, người nông dân đã sử dụng, khai thác mọi người lực của mình để đầu tư sản xuất, xuất khẩu, nhưng với sự bấp bênh trong quan hệ cung, cầu trên thị trường thế giới, gây ra rất nhiều rủi ro cho họ khi giá cả sụt giảm hoặc cầu trên thị trường sụt giảm. Nông dân là tác nhân quan trọng trong các chuỗi giá trị nông sản xuất khẩu của nước ta, nhưng lại là tác nhân yếu thế nhất, do sự hạn chế trong tiếp cận thông tin, và năng lực đàm phán, chia sẻ lợi ích và rủi ro trong sự phát triển các chuỗi giá trị.

Quá trình đô thị hoá dẫn đến tình trạng nông dân bị mất đất, phải từ bỏ nghề nông trong khi chưa được trang bị các điều kiện cần thiết để chuyển sang làm các nghề khác. Trong hoàn cảnh này nhóm đối tượng dễ bị tổn thương nhất là những người lao động nông thôn trên 35 tuổi (đặc biệt là lao động nữ). Bởi vì ở độ tuổi đó, họ khó được tuyển dụng vào các doanh nghiệp và cũng khó có thể được đào tạo them nghề mới, trong khi nghề chính của họ là làm nông nghiệp lại không còn đất để sản xuất.

Biến đổi khí hậu có sự gia tăng, diễn biến phức tạp và khó lường. Ở Việt Nam, trong những năm gần đây, trong điều kiện biến đổi khí hậu phức tạp, số lượng và cường độ thiên tai có xu hướng gia tăng theo thời gian, gây thiệt hại lớn về người và tài sản tại các vùng bị ảnh hưởng, đặc biệt là trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp.

Một số đề xuất về chủ trương, định hướng để nâng cao vị thế của đội ngũ nông dân Việt Nam

Có thể nói, cùng với sự phát triển tất yếu của xu hướng đô thị hóa, tỷ lệ và số lượng dân cư nông thôn nói chung và đội ngũ nông dân nước ta nói sẽ có xu hướng giảm xuống tuy nhiên vẫn là lực lượng quan trọng. Việc chăm lo và phát huy vai trò của lực lượng to lớn này có ý nghĩa lớn đối với phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Có thể nói, trong giai đoạn từ nay đến năm 2035, tầm nhìn 2050, đô thị hóa đi đôi với công nghiệp hóa làm giảm tương đối vai trò kinh tế của nông nghiệp, kinh tế nông thôn, nông dân; biến đổi khí hậu làm tăng thêm rủi ro, nhưng chuyển đổi số và cách mạng công nghiệp lần thứ tư lại tạo ra nhiều cơ hội để nâng cao hiệu quả và phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn. 

Do vậy, cần thiết phải nhìn nhận đúng vai trò, vị trí quan trọng của nông nghiệp, kinh tế nông thôn, nông dân nước ta trong tiến trình phát triển kinh tế - xã hội bền vững chung của đất nước. Không chỉ là những giá trị đóng góp về mặt kinh tế mà còn đặc biệt là những vai trò quan trọng về mặt xã hội (tạo việc làm, thu nhập ổn định, bảo tồn, phát huy các ngành nghề truyền thống) và môi trường (giữ gìn cảnh quan, đóng góp vào giảm thiểu, thích ứng với biến đổi khí hậu). 

Trong suốt gần 40 năm qua, Đảng ta đã chú trọng phát vai trò chủ thể của nông dân, coi nông dân là trung tâm của quá trình phát triển. Thực tiễn phát triển nông nghiệp, nông thôn thời gian qua cũng cho thấy phát huy nguồn lực to lớn trong nông dân, nông thôn có vai trò quyết định. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện còn nhiều vấn đề vướng mắc, hạn chế dẫn đến điều kiện sống và nguồn lực cho phát triển sản xuất kinh doanh của nông dân còn không thua kém so với người dân ở các đô thị. Trên cơ sở thực hiện chủ trương về đảm bảo công bằng xã hội - chủ trương “không để ai bị bỏ lại phía sau” trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, cần thiết phải đổi mới quan điểm về phát triển nông dân như sau: 

Nông dân cần được coi là chủ thể và trung tâm của quá trình phát triển. Cần tạo điều kiện thuận lợi để phát huy cao tính năng động, sáng tạo và nguồn lực của nông dân. Xây dựng đội ngũ nông dân văn minh, có trình độ văn hóa cao, có năng lực làm chủ khoa học kỹ thuật, công nghệ số, nắm bắt các cơ hội do đô thị hóa, công nghiệp hóa, hội nhập quốc tế đem lại, thích ứng với biến đổi khí hậu, có thu nhập và điều kiện sống tiệm cận với khu vực đô thị, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, bảo vệ môi trường sống trong lành, thực thi dân chủ, công bằng và tiến bộ xã hội.

Để thực hiện thành công chủ trương trên, trong thời gian tới cần thực hiện nhất quán nhũng định hướng sau:

Một là, phát triển bền vững nông dân trên cơ sở trao quyền, hỗ trợ để nâng cao vị thế của người nông dân. Cần tập trung các chính sách hỗ trợ người nông dân nâng cao nhận thức, năng lực làm chủ và được hưởng quyền lợi và nghĩa vụ công bằng như lao động của các ngành nghề khác.

Hai là, phát triển bền vững nông dân cần chú trọng phát triển về chất lượng, hình thành đội ngũ nông dân chuyên nghiệp và có trách nhiệm trước xã hội về những nông sản mà mình tạo ra.

Ba là, phát triển bền vững nông dân cần chú trọng về phát triển đội ngũ nông dân trẻ, có cơ chế, chính sách hướng nghiệp, đào tạo nghề và hỗ trợ thanh niên khởi nghiệp nông nghiệp, ứng dụng khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ số trong sản xuất và kinh doanh. Từ đó tạo thêm giá trị gia tăng cho sản phẩm nông sản đặc sản của các vùng, miền, địa phương.

Bốn là, phát triển bền vững nông dân trên nền tảng mô hình kinh tế chia sẻ, mô hình tổ hợp tác, nhóm sở thích, hợp tác xã... Từ đó giúp nông dân có cơ hội sử dụng nguồn lực sản xuất với chi phí rẻ hơn, đem lại lợi ích theo quy mô; được tiếp cận và áp dụng quy trình sản xuất đồng bộ, đạt tiêu chuẩn chất lượng chung và có bảo hộ tem mác, xuất xứ hàng hoá. 

TÀI LIỆU THAM KHẢO
 Báo Nông Nghiệp Việt Nam. (2021, November 17). Xuất ngoại làm giàu-Cơ hội của nông dân thời hội nhập. https://nongnghiep.vn/xuat-ngoai-lam-giau--co-hoi-cua-nong-dan-thoi-hoi-nhap-d308098.html
Bộ Nông nghiệp và PTNT. (2021). Dự thảo lần 5: Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn bền vững giai đoạn 2021-2030 tầm nhìn đến 2050.
Croplife châu Á. (2021). Nông dân Việt Nam quan tâm tới số hóa nhiều hơn các nước trong khu vực. https://ictvietnam.vn/nong-dan-viet-nam-quan-tam-toi-so-hoa-nhieu-hon-cac-nuoc-trong-khu-vuc-24987.html
Đào Thế Anh, Ad Spijkers, & Kris Wyckhuys. (2021). Vai trò của các tổ chức quốc tế và sự chuyển đổi nông nghiệp | Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam. Viện Khoa Học Nông Nghiệp Việt Nam. https://vaas.vn/vi/tieu-diem-binh-luan/vai-tro-cua-cac-chuc-quoc-te-va-su-chuyen-doi-nong-nghiep
FAO. (2019). Digital agriculture transformation and digital innovation (Transfroming Ideas into Value in a Sustainable Way for #ZeroHunger). https://www.fao.org/3/ca7434en/ca7434en.pdf
Nguyễn Thị Thu Quỳnh, Ngô Minh Hải, Trần Đức Trí, & Nguyễn Tất Thắng. (2022). Lao động ngành Nông nghiệp trước thách thức chuyển đổi sang nền kinh tế số. Tạp chí nông thôn mới, 622(Tháng 3/2022), 10-17. https://tapchinongthonmoi.vn/lao-dong-nganh-nong-nghiep-truoc-thach-thuc-chuyen-doi-sang-nen-kinh-te-so-18141.html
Thanh Trần. (2022). Bay xuất ngoại để… làm nông. Báo điện tử Tiền Phong. https://tienphong.vn/post-1471313.tpo
Tổng cục thống kê. (2021). Kết quả điều tra nông nghiệp, nông thôn giữa kỳ năm 2020. https://www.gso.gov.vn/du-lieu-va-so-lieu-thong-ke/2021/06/thong-cao-bao-chi-ve-ket-qua-dieu-tra-nong-thon-nong-nghiep-giua-ky-nam-2020
Tổng cục thống kê. (2023). Dữ liệu về Tài khoản quốc gia và tài chính. General Statistics Office of Vietnam. https://www.gso.gov.vn/px-web-2/
Tổng cục thống kê. (2024). Tình hình thị trường lao động Việt Nam năm 2023. General Statistics Office of Vietnam. https://www.gso.gov.vn/du-lieu-va-so-lieu-thong-ke/2024/01/tinh-hinh-thi-truong-lao-dong-viet-nam-nam-2023/