Công ty Phân lân nung chảy Văn Điển

“Trồng trọt sạch” để nâng chất nông sản và bảo vệ nông dân

20:02 30/08/2020 GMT+7
Trước nhu cầu ngày càng lớn của người dân, nguy cơ thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) nhập lậu, không rõ nguồn gốc xuất xứ, giá rẻ thâm nhập vào nước ta ngày càng nhiều, ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất nông nghiệp. Đặc biệt, trong quá trình sản xuất, không ít người dân

Trước nhu cầu ngày càng lớn của người dân, nguy cơ thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) nhập lậu, không rõ nguồn gốc xuất xứ, giá rẻ thâm nhập vào nước ta ngày càng nhiều, ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất nông nghiệp. Đặc biệt, trong quá trình sản xuất, không ít người dân vẫn chưa nhận thức được tác động 2 mặt của thuốc BVTV, sử dụng thiếu an toàn hoặc quá lạm dụng thuốc gây ảnh hưởng đặc biệt nghiêm trọng đến sức khỏe và môi trường sống hiện nay.

Phóng viên đã có cuộc trao đổi với ông Trần Văn Bến – Chủ tịch Hội ND Quảng Trị để hiểu rõ hơn vai trò của Hội ND Quảng Trị trong việc nâng cao nhận thức của nông dân về sử dụng thuốc BVTV trong sản xuất nông nghiệp, hiện nay.

Ông Trần Văn Bến – Chủ tịch HND tỉnh Quảng Trị.

Xin ông cho biết, thực trạng sử dụng thuốc BVTV trong sản xuất nông nghiệp của nông dân hiện nay và ảnh hưởng của nó đối với đời sống sản xuất và sức khỏe con người như thế nào?

Trên địa bàn Quảng Trị, bình quân mỗi năm sử dụng khoảng từ 80 – 90 tấn thuốc BVTV. Trong đó thuốc trừ cỏ từ 40 – 50 tấn, riêng thuốc trừ cỏ không chọn lọc phun trên đất trước khi trồng trọt từ 20 – 30 tấn. Chưa kể còn có tới hàng tấn bao gói thuốc BVTV sau sử dụng thải ra trên đồng ruộng. Việc sử dụng thuốc BVTV của người dân vẫn chưa tuân theo quy trình kỹ thuật, đặc biệt việc lạm dụng thuốc trừ cỏ không chọn lọc có hoạt chất Glyphosate mỗi năm từ 1-2 lượt/ đơn vị diện tích.

Theo nghiên cứu, lượng thuốc BVTV được sử dụng trong trồng trọt thường vượt quá nồng độ so với quy định, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe người tiêu dùng. Một số địa phương còn lơ là trong công tác thu gom bao gói thuốc BVTV sau sử dụng, xả rác không đúng quy định làm ô nhiễm nghiêm trọng đến nguồn nước, không khí và môi trường sinh vật xung quanh.

Hội Nông dân Quảng Trị đã đẩy mạnh tuyên truyền, tập huấn về các tiêu chuẩn sử dụng thuốc BVTV như thế nào, thưa ông?

Hội ND Quảng Trị đã đẩy mạnh công tác tuyên truyền, tập huấn về các tiêu chuẩn sử dụng thuốc BVTV được các cấp Hội quan tâm, chú trọng. Hằng năm, Ban Thường vụ Hội ND tỉnh phối hợp với Trung tâm Môi trường của Trung ương Hội ND Việt Nam, Sở Tài nguyên Môi trường, Chi cục BVTV, các ban ngành liên quan tổ chức các lớp tập huấn phù hợp với tình hình thực tiễn như: “Hội ND tham gia thu gom vỏ bao bì thuốc BVTV gắn với bảo vệ môi trường nông thôn”, hướng dẫn cách sử dụng thuốc BVTV…. Nhằm tuyên truyền, vận động hướng dẫn cán bộ, hội viên nông dân trong tỉnh nâng cao nhận thức về công tác bảo vệ môi trường, sức khỏe bản thân và cộng đồng xã hội.

Chỉ đạo, đôn đốc kịp thời Hội ND các huyện, thị, thành phố phối hợp Chi Cục Bảo vệ Thực vật lên kế hoạch triển khai về tận hội viên nông dân trong công tác, giám sát, tuyên truyền, hướng dẫn việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật trong sản xuất, và chế biến. Tổ chức ký kết cam kết với chính quyền địa phương trong sử dụng thuốc BVTV; giám sát người dân trong sử dụng thuốc BVTV. Đồng thời có giải pháp tẩy chay các sản phẩm lạm phát về sử dụng thuốc BVTV. Hằng năm, Hội ND phát động phấn đấu ít nhất mỗi cụm cơ sở xây dựng ít nhất một mô hình sử dụng thuốc BVTV theo tiêu chuẩn đảm bảo quy định.
T

hông qua sinh hoạt định kỳ của Chi hội, Hội ND đã lồng ghép tuyên truyền sâu rộng về Luật Bảo vệ môi trường, sử dụng thuốc BVTV đúng cách theo hướng dẫn, góp phần bảo vệ môi trường, nâng cao sức khỏe cho người dân.

Những năm qua, Hội ND Quảng Trị đã tổ chức nhiều hoạt động hỗ trợ nông dân xây dựng các mô hình sản xuất nông nghiệp an toàn: Ba không, ba có, bốn đúng, xin ông chia sẻ thêm về vấn đề này?

Nhằm nâng cao hiệu quả trong việc sử dụng thuốc BVTV để hỗ trợ nông dân xây dựng các mô hình sản xuất nông nghiệp an toàn, Hội ND tỉnh đã tích cực phối hợp tuyên truyền, hướng dẫn bà con áp dụng theo nguyên tắc “4 đúng” gồm: đúng thuốc, đúng nồng độ liều lượng, đúng lúc và đúng cách trong trồng trọt để giảm thiểu ô nhiễm môi trường, đồng thời tiết kiệm chi phí và hạ giá thành sản phẩm.

Vì vậy, trong những năm qua Hội ND tỉnh đã phối hợp với Sở Nông Nghiệp và PTNT, Sở Khoa học và Công nghệ, Sở Tài nguyên và Môi trường cùng các doanh nghiệp tổ chức hàng trăm buổi hội thảo với trên 5.000 người tham gia để đánh giá kết quả ứng dụng quy trình sử dụng thuốc BVTV vào sản xuất thử nghiệm với các loại giống, cây con mới. Xây dựng các mô hình điển hình, áp dụng công nghệ sinh học, trồng trọt chăn nuôi hữu cơ, hạn chế sử dụng thuốc BVTV, các mô hình trồng cây, rau sạch cũng được chú trọng.

Từ đó, nhiều mô hình liên kết giữa nông dân “trồng trọt sạch, sản xuất sạch” với doanh nghiệp/nhà máy chế biến đã bước đầu phát huy hiệu quả. Một số mô hình liên kết 4 nhà phát triển, bước đầu đã hình thành được chuỗi giá trị mang lại kết quả tốt như trồng dứa nguyên liệu, trồng cây dược liệu, gạo hữu cơ, chanh leo. Các tiến bộ kỹ thuật và công nghệ mới, theo hướng nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ với quy mô ngày càng tăng như: công nghệ tưới tiết kiệm, thủy canh, nhà lưới, nhà màng, canh tác theo tiêu chuẩn 4C, UTZ, canh tác hữu cơ, canh tác tự nhiên… dần dần nông nghiệp hữu cơ sẽ thay thế thuốc BVTV và phân bón hóa học.

Hội Nông dân xã Gio Phong, huyện Gio Linh thu gom rác thải bảo vệ môi trường.

Thưa ông, trước báo động về tình trạng sức khỏe của con người và ô nhiễm môi trường do thuốc BVTV gây ra, chúng ta cần triển khai những giải pháp nào để hạn chế việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật?

Hàng năm, Hội ND tỉnh phối hợp các đơn vị liên quan triển khai công tác giám sát tổ chức thực hiện tại cơ sở việc sử dụng phân bón và thuốc BVTV. Qua đó, chỉ ra được phân bón, thuốc BVTV kém hiệu quả, kém chất lượng để cho người dân biết cách khi mua và sử dụng thuốc BVTV. Kết quả cho thấy thuốc BVTV được cung ứng cho nông dân trong những năm qua từ các HTX và các Đại lý trên địa bàn đều có nguồn gốc, cách sử dụng đảm bảo chất lượng, giá cả phù hợp trên thị trường đến với người nông dân.

Ngoài ra Hội ND tỉnh chỉ đạo các cấp Hội hướng dẫn hội viên nông dân khi sử dụng thuốc BVTV, sau khi pha chế, phun rải thuốc phải thu gom bao gói để vào bể chứa; Để riêng bao gói thuốc sau sử dụng với rác thải sinh hoạt và rác vệ sinh đồng ruộng; Không sử dụng bao gói thuốc BVTV sau sử dụng vào các mục đích khác; Không tự ý đốt hoặc đem chôn bao gói thuốc BVTV sau sử dụng.

Hội ND còn tham gia phối hợp, quản lý hoạt động chuyển giao bao gói thuốc BVTV sau sử dụng của UBND cấp xã với đơn vị có chức năng, năng lực phù hợp theo quy định về quản lý chất thải nguy hại để vận chuyển và xử lý bao gói thuốc BVTV sau sử dụng. Phối hợp kiểm tra, hướng dẫn việc thu gom bao gói thuốc BVTV sau sử dụng theo quy định của pháp luật.

Tuyên truyền, hướng dẫn người sử dụng thuốc BVTV trên địa bàn thu gom bao gói vào bể chứa và thực hiện các quy định của pháp luật có liên quan; quản lý các bể chứa, khu vực lưu chứa bao gói thuốc BVTV trên địa bàn đảm bảo vệ sinh môi trường, theo quy định của ngành chuyên môn.
Trân trọng cảm ơn ông!

Bảo Trung (thực hiện)