Công ty Phân lân nung chảy Văn Điển

Con trâu trong phong tục của các dân tộc thiểu số ở Việt Nam

08:06 12/02/2021 GMT+7

Không chỉ trở thành vật nuôi phổ biến và có tác động to lớn tới truyền thống văn hóa của người Kinh, trâu cũng là loài vật hiện diện trong đời sống và phong tục của các dân tộc thiểu số Việt Nam, ít nhiều ảnh hưởng trực tiếp đến tập quán và bản sắc của họ.

Chạm hình con trâu ở kiến trúc đình Khả Lý Hạ (Việt Yên).

Dân tộc CHĂM

Trâu là con vật không thể thiếu trong nhiều nghi lễ, phong tục. Nó là lễ vật dâng cúng thần linh, ông bà, cha mẹ, thu hút sự chăm lo giúp sức của người thân và bà con láng giềng. Vào tháng Bảy theo lịch Chăm, cứ 7 năm một lần, một con trâu trắng dùng làm lễ vật được đem dâng cúng với nghi lễ linh đình tại chân núi Đá Trắng (núi Giang Patao) thuộc làng Như Bình, Phước Thái, Ninh Phước (Ninh Thuận). Còn vào tháng Tư theo lịch Chăm hàng năm, lễ hội chém trâu tế thần được tổ chức cầu kỳ ở Lạc Tánh (Bình Thuận), một con trâu đực lành lặn được cúng dâng thần linh tại đền Pô Rum Păn.

Dân tộc CƠ TU

Trâu là hình ảnh thiêng liêng nối kết ước vọng của con người với thế giới thần linh. Nghi lễ Khóc tế trâu (Boóch tế trâu) có điệu hát Lý khóc trâu và nhạc chuông riêng đặc sắc. Trâu còn được coi là đơn vị tài sản cơ bản để đánh giá, trao đổi, mua bán hàng hóa giá trị cao.

Nhà công cộng (gươl) của dân làng là công trình khang trang, bề thế và đẹp nhất. Ngôi nhà này được tạo hình đầu trâu trên mặt ván be quanh sàn, vừa để trang trí, vừa dùng làm bậc lên xuống, cứ mỗi cặp sừng trâu là một bậc. Còn nhà mồ (pinh blâng) thì có hai cột ngang đỡ mái được kéo dài với đầu nhô ra phía trước cũng là hình đầu trâu.

Dân tộc DAO

Mỗi họ dùng một con thú khác nhau làm lễ vật chính cúng tổ tiên. Họ Phùng dùng dê, họ Bàn dùng bò..còn họ Triệu thì dùng trâu để cúng.

Sừng trâu là biểu tượng may mắn của người Dao đỏ. Nó thường được khắc tên người chủ gia đình và luôn được treo hoặc cắm trên đầu một cây gậy gỗ, để cạnh bàn thờ – nơi trang trọng nhất trong nhà.

Dân tộc M’NÔNG

Trâu được coi là vật quý, chỉ xếp sau voi, nên gia đình nào có trâu được xem là giàu có. Người ta dùng trâu để giải quyết nhiều việc lớn của cá nhân, gia đình, dòng họ và buôn làng. Trâu còn được sử dụng làm vật hiến sinh để thể hiện lòng tôn kính, biết ơn giữa con người với thế giới thần linh; tin rằng hồn trâu, thần trâu luôn ở bên cạnh và mang lại may mắn cho gia đình, cộng đồng…

Trong lễ ướm hỏi, người mai mối của nhà trai đem theo hai ống lồ ô đựng măng chua và da trâu thái nhỏ. Nếu gia đình nhà gái nhận, nghĩa là đã ưng thuận. Còn với lễ ăn hỏi, trong các lễ vật nhà trai mang đến nhà gái thường phải có 20-30 ống măng chua và da trâu muối.

Dân tộc MƯỜNG

Trước Tết vài ngày, người Mường chuẩn bị sẵn mõ để qua giao thừa đốt đuốc đi gọi vía trâu. Họ tin đó là cách trả ơn vật nuôi trung thành đã vất vả giúp gia đình cày ruộng. Họ cũng treo bánh ống lên các dụng cụ sản xuất như cày, bừa, sào, đòn gánh… để mời “những người bạn đồng hành” này về ăn Tết với gia đình, với quan niệm con trâu hay cái cày cũng đều cần được nghỉ Tết sau một năm làm việc trên đồng.

Dân tộc PHÙ LÁ

Dân tộc Phù Lá coi trâu là thủy tổ của mình với truyền thuyết rằng, xa xưa, ông tổ người Phù Lá mồ côi từ rất sớm, may nhờ có trâu cho bú nên đã sống được và trưởng thành. Chính từ quan niệm ấy, con cháu họ về sau kiêng ăn thịt trâu để tỏ lòng biết ơn.

Dân tộc SÁN CHAY

Ngôi nhà của người Sán Chay có mô hình phỏng theo con trâu thân thuộc của họ: 4 cột ở giữa là 4 chân, rui mè là xương sườn, đòn nóc là sống lưng… Thùng cám được đặt ngay chân cột chính, cạnh cửa ra vào chính là dạ dày của trâu thần, người và gia súc nương bám vào đó mà sống (bởi vậy đây là chỗ linh thiêng trong nhà, là nơi thờ thần nuôi của gia đình).

Dân tộc S’TIÊNG

Khi kinh tế khá giả, một gia đình có thể mời một gia đình khác trong họ, hàng xóm hoặc thông gia tổ chức lễ “quay đầu trâu”. Nguyên liệu gồm 2 con trâu to béo được lựa chọn và nuôi từ trước, 2 con lợn, một đàn gà, nhiều rượu, gạo nếp, gạo tẻ…

Ngày lễ hội, một cây nêu cầu kỳ được dựng, cạnh đó chôn các cọc cột trâu chắc chắn. Trâu được dắt tới, buộc chặt vào các cọc. Mọi người tập trung xung quanh và nhảy múa theo nhịp cồng chiêng. Gia chủ bắt đầu các lễ cúng thần linh theo nghi thức của người S’tiêng, rồi cầm cây xà gạc (một loại dao) chặt mạnh 2 chân sau để trâu ngã quỳ trước cây nêu… Giết trâu xong, đầu trâu được cắt ra, đặt dưới gốc cây nêu để cúng dâng các vị thần. Còn thân trâu được mổ moi, làm thịt và chế biến cùng các nguyên liệu khác thành những món ăn độc đáo. Hoạt động vui chơi, ăn uống trong lễ hội có thể kéo dài mấy ngày liền.

Dân tộc TÀY

Dân tộc Tày đầu năm có tục “hát vài xuân” (“vài” theo tiếng Tày có nghĩa là con trâu). Người hát rong nghèo khổ vào dịp Tết đến đứng trước mỗi nhà cất lời hát chúc mừng năm mới tốt lành và nhất là hát chúc mừng con trâu mùa xuân, vừa hát vừa dán lên cánh cổng ra vào tờ tranh nền đỏ, khổ bằng bàn tay, có hình một con trâu béo khỏe, bên cạnh là dòng chữ “tân niên đại cát”. Chủ nhà thích thú lắng nghe từ đầu đến cuối, dứt bài hát liền chạy ra biếu người hát rong một cái bánh chưng, vài phong bánh khảo hoặc một món tiền trong phong bao giấy đỏ.

Dân tộc THÁI

Trâu giữ vai trò quan trọng trong sản xuất và đời sống kinh tế với câu tục ngữ “Con trâu là cái nền nhà” (Tô quai tại hương). Trâu cũng được sử dụng vào mục đích tín ngưỡng, tôn giáo, là lễ vật cúng tế trong đám tang nhà giàu, chức dịch hoặc bậc cao niên và nhất là các dịp cúng bản cúng mường để tạ ơn trời đất, cầu an cho dân. Ngày Tết, trâu được ăn bánh chưng, lá dong…

Người Thái Mường Lò ở Văn Chấn (Yên Bái) còn có tục cúng vía trâu: lễ cúng được tổ chức trang trọng vào sáng sớm Tết “xíp xí”, tức ngày 14 tháng Bảy âm lịch (ngày 14 tháng Giêng theo lịch của người Thái cổ). Sáng sớm, trẻ em đưa trâu đi tắm rửa sạch sẽ. Người nhà chuẩn bị một mâm lễ vật gồm: Một con gà nhỏ luộc chín, một bát cơm, một bát gạo, một đĩa muối, nhiều nến, nhang và số chén rượu bằng số trâu của gia đình. Bà mo khấn xong rồi đổ rượu, xoa muối vào đầu trâu, bón cơm, thịt gà, cỏ non cho trâu nái trước khi bón cho những con trâu khác. Mọi người vui chơi và cho trâu ăn uống, vuốt ve, vỗ về trâu.

Dân tộc XƠ ĐĂNG

Trâu được dùng để dẫm ruộng trước khi đi cày. Cả làng nhốt trâu chung một chuồng. Cửa chuồng được trang trí đẹp, giữa chuồng có trồng cây nêu cao vút và gắn nhiều vật thiêng. Tháng 2 dương lịch mở đầu năm mới với lễ cúng trâu. Mỗi năm, chuồng được thay một lần và lễ cúng trâu tổ chức trong dịp này. Mọi người dự lễ đều cầu mong những điều tốt lành cho làng, cầu cho trâu được khỏe mạnh, sinh con đàn cháu đống. Tiếp đó là nghi thức 5, 7 hoặc 9 người cùng rút gióng thả trâu ra khỏi chuồng mới.

Đối với nhiều dân tộc thiểu số Việt Nam, còn có chung những phong tục lạ liên quan đến trâu. Chẳng hạn, phụ nữ Dao, Gia Rai, Pà Thẻn khi có thai đều kiêng bước qua dây buộc trâu, vì họ sợ làm vậy sẽ đẻ khó. Đa số các dân tộc ở Tây Nguyên đều có tục đâm trâu độc đáo trong lễ cắt việc (mơ tloh bróa) dành riêng cho người con trai tuổi trưởng thành (từ 18 đến 20 tuổi) nhằm chính thức công nhận từ đây anh ta là thành viên của cộng đồng, đảm lãnh nghĩa vụ và quyền lợi bình đẳng như mọi thành viên khác. Các dân tộc ở Tây Nguyên cũng coi trâu là một trong những tài sản giá trị, dùng để phân định mức độ giàu nghèo của từng gia đình và là đại lượng để mua bán trao đổi các vật quý hiếm (ví dụ, có chiếc ché hoặc bộ cồng chiêng phải đổi bằng hàng chục con trâu).

Sơn Hà (sưu tầm)