Công ty Phân lân nung chảy Văn Điển

Nông dân Việt Nam ghi nhớ ân tình sâu nặng của Đại tướng

07:02 25/08/2021 GMT+7

Nhân dịp Kỷ niệm 110 năm Ngày sinh Đại tướng Võ Nguyên Giáp, đồng chí Đinh Khắc Đính – Phó Chủ tịch BCH Trung ương Hội Nông dân Việt Nam có bài viết “Đại tướng Võ Nguyên Giáp với giai cấp Nông dân Việt Nam”. Trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc (vì lý do kỹ thuật, tít bài do Toà soạn đặt lại).

Ngày 22/12/1944, theo chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng chí Võ Nguyên Giáp thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân (tổ chức tiền thân của Quân đội Nhân dân Việt Nam) tại chiến khu Trần Hưng Đạo với 34 đội viên.

Đồng chí Đại tướng Võ Nguyên Giáp là người Anh Cả của Quân đội Nhân dân Việt Nam Anh hùng, người chiến sỹ cách mạng kiên trung, một người học trò xuất sắc và gần gũi của Chủ tịch Hồ Chí Minh… Ông sinh ngày 25/8/1911 tại làng An Xá, xã Lộc Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình. Chính mảnh đất quê hương giàu truyền thống cách mạng và anh hùng, cùng với truyền thống yêu nước của dòng tộc, gia đình đã nuôi dưỡng, hun đúc nên nhân cách, tài năng và sự nghiệp cách mạng của Đại tướng.

Ngay từ khi còn là học sinh ngồi trên ghế nhà trường, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã sớm giác ngộ cách mạng và tích cực tham gia các phong trào đấu tranh bãi khóa ở nhiều nơi. Sau khi đất nước giành được độc lập vào năm 1945, đồng chí Võ Nguyên Giáp được Đảng và Nhà nước giao nhiều nhiệm vụ quan trọng như Tổng Tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam, Bí thư Quân uỷ Trung ương, Bộ trưởng Bộ Nội vụ, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, Chủ nhiệm Uỷ ban Khoa học Nhà nước… và nhiều vị trí quan trọng khác trong từng thời kỳ cách mạng. Với tài năng, đức độ và uy tín lớn của mình, Đại tướng đã cùng Trung ương Đảng lãnh đạo toàn dân, toàn quân tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng, bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân ở miền Nam, lần lượt đánh bại các cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, làm thất bại âm mưu của thế lực bành trướng bá quyền phương Bắc trong 2 cuộc chiến tranh biên giới, làm nên những thắng lợi vẻ vang của đất nước, mà đỉnh cao là Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954, rạng rỡ non sông, chấn động địa cầu, chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử mùa Xuân năm 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, thu non sông về một mối, đưa cả nước đi lên Chủ nghĩa xã hội.

Nói đến Đại tướng Võ Nguyên Giáp, dù bất kỳ từ góc độ quân sự, chính trị, khoa học hay ngoại giao, chúng ta đều ngưỡng mộ trước một người có trí tuệ mẫn tiệp, tâm đức ngời sáng và tầm vóc phi thường. Những di sản mà Đại tướng Võ Nguyên Giáp để lại cho Nhân dân ta, Quân đội ta và nền quốc phòng toàn dân của chúng ta, theo thời gian, ngày càng hiển lộ thêm nhiều giá trị sâu sắc và ý nghĩa to lớn. Với tinh thần khoa học và tâm thế tri ân, chúng ta cần có những chuyên khảo công phu hơn, trên nền tảng tư liệu đầy đủ hơn nữa, mới có thể đánh giá sâu sắc, toàn diện mối quan hệ nhiều ý nghĩa nói trên. Trong phạm vi bài viết này, tôi đề cập đến 6 khía cạnh quan trọng trong mối quan hệ giữa Đại tướng với Giai cấp Nông dân Việt Nam trong hơn một thế kỷ qua.

Trước hết, mối quan hệ giữa Đại tướng Võ Nguyên Giáp với giai cấp Nông dân Việt Nam rất sâu sắc ngay từ thuở ban đầu, gắn bó máu thịt “như cá với nước”. Nhìn suốt chiều dài lịch sử, giai cấp nông dân là lực lượng to lớn và đông đảo nhất trong xã hội, là lực lượng chính trong sự vận động kiến tạo nên văn hoá, lịch sử Việt Nam qua nhiều triều đại. Cho đến những năm đầu thế kỷ XX, giai cấp nông dân vẫn chiếm tuyệt đại đa số (hơn 90%) trong tổng dân số cả nước, nhưng chỉ sở hữu một phần rất nhỏ ruộng đất. Nông dân ta lúc ấy đang trong tình cảnh bị áp bức “một cổ hai tròng” của thực dân và địa chủ phong kiến. Trong đêm trường nô lệ ấy, “Mặt trời Nga bừng chói ở phương Đông…”(1) (1917). Có thể nói rằng, cùng với nền tảng văn hoá – lịch sử dân tộc, những hoàn cảnh đặc biệt đầu thế kỷ XX đã trực tiếp “sinh ra” và bồi đắp phẩm chất vị lãnh tụ vĩ đại Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh và vị tướng văn võ song toàn Võ Nguyên Giáp cùng nhiều chiến sỹ cách mạng kiên trung khác.

Sinh ra từ một gia đình nhà Nho nghèo ở vùng quê giàu truyền thống yêu nước, trực tiếp chứng kiến cảnh đồng bào, bà con nông dân bị thực dân áp bức và tay sai bóc lột, đàn áp dã man, người thanh niên Võ Nguyên Giáp đã sớm có tinh thần cách mạng, và quyết tâm đứng lên đấu tranh chống áp bức, bóc lột, cường quyền. Trong những năm 1925-1928, do sớm được tiếp thu tư tưởng cách mạng của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, ông đã tích cực tham gia phong trào đấu tranh, bãi khóa ở Trường Quốc học Huế; tham gia phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh vào đầu tháng 10 năm 1930, bị thực dân Pháp bắt giữ và bị giam ở nhà lao Thừa Phủ, Huế (1930), cuối năm 1931, nhờ sự can thiệp của Hội Cứu tế đỏ của Pháp, người thanh niên yêu nước Võ Nguyên Giáp được thả tự do. Khi ra tù, ông ra Hà Nội dạy học ở Trường tư thục Thăng Long, viết báo tuyên truyền xây dựng cơ sở cách mạng trong thanh niên, học sinh, đồng thời tiếp tục học Đại học Luật và Kinh tế. Trong giai đoạn 1936-1939, thầy giáo Võ Nguyên Giáp đã sáng lập và làm biên tập viên cho một số tờ báo công khai hồi đó…

Một trong những dấu ấn đặc biệt chưa từng phai mờ trong tâm trí giai cấp nông dân Việt Nam, đó là tác phẩm “Vấn đề dân cày” mà Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã nghiên cứu, viết cùng đồng chí Trường Chinh năm 1937 (ký là Qua Ninh – bút danh của Trường Chinh) và Vân Đình (bút danh của Võ Nguyên Giáp). “Vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, đường lối của Đảng Cộng sản Đông Dương lúc đó và thực tiễn khảo sát đời sống nông thôn, các tác giả đặt vấn đề nghiên cứu thực trạng nông thôn Việt Nam dưới ách áp bức thực dân và phong kiến, đề cập đến vần đề ruộng đất và dân cày. Cuốn sách phê phán một số nhận thức quan điểm sai lầm đối với dân cày và vạch rõ vị trí của người dân cày trong cách mạng Việt Nam. Cuốn sách lên tiếng tố cáo chính sách phản động của đế quốc phong kiến về ruộng đất, tô thuế, nạn vay lãi nặng… và nêu lên yêu sách của dân cày Đông Dương trước Mặt trận nhân dân”(2).

Các tác giả “Vấn đề dân cày” đã phân tích quá trình phân hóa diễn ra trong tầng lớp địa chủ phong kiến lúc ấy; về tình hình một bộ phận không nhỏ tiểu và trung nông tham gia phong trào dân tộc dân chủ chống thực dân Pháp và thế lực phản động tay sai; về tình hình những mâu thuẫn giữa nông dân với đế quốc Pháp và phong kiến tay sai ngày càng hết sức gay gắt… Trước hoàn cảnh vô cùng khó khăn lúc đó, đồng chí Võ Nguyên Giáp và đồng chí Trường Chinh vẫn luôn tin tưởng, đánh giá cao vai trò của dân cày lúc bấy giờ đối với Cách mạng và tiền đồ của đất nước: “… Dân cày thường chiếm số đông trong nhân dân, dân cày là một lực lượng hậu bị khá mạnh của cách mạng, cho nên phàm một cuộc cải tạo xã hội một cách lớn lao phải có dân cày tham gia mới có kết quả”. Và, “dân cày rất đáng cho ta mến phục: Khi nào họ được giác ngộ, có tổ chức và có lãnh đạo thì họ có một sức mạnh quật cường to lớn. Lúc đó họ sẵn sàng san phẳng những trở lực trên bước đường tiến thủ của họ và của dân tộc. Song tất cả vấn đề là ở chỗ: Giác ngộ, tổ chức và lãnh đạo được dân cày”…

Nhân dân Mường Phăng đón Đại tướng về thăm lại khu Sở Chỉ huy Chiến dịch Điện Biên Phủ năm 2004. Ảnh tư liệu

Những gì đã diễn ra trong cuộc Cách mạng tháng Tám và hai cuộc kháng chiến trường kỳ chống Pháp, chống Mỹ cứu nước, cũng như quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế trong hơn 30 năm qua, đã minh chứng cho những luận điểm mà Đại tướng Võ Nguyên Giáp và đồng chí Trường Chinh nêu ra. Cho đến tận ngày nay, khi Đảng ta tiếp tục lãnh đạo đất nước tiến lên mục tiêu quốc gia Công nghiệp có thu nhập cao vào năm 2045 (mốc kỷ niệm 100 năm thành lập nước) như Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đề ra, nhận định về giai cấp Nông dân vẫn còn nguyên giá trị. Như vậy, tuổi thanh xuân của Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã gắn bó mật thiết với người nông dân Việt Nam, vui niềm vui của người nông dân, đau nỗi đau của nông dân dưới hai tầng áp bức, nô lệ. Nỗi đau đó đã được người chiến sĩ cách mạng trẻ tuổi chuyển hoá thành hành động, mở đầu hành trình tìm đến ánh sáng cách mạng để giải phóng dân tộc, giải phóng nhân dân.

Thứ hai, hình ảnh Đại tướng trong lòng người nông dân Việt Nam như một người thân trong gia đình, nghiêm nghị nhưng gần gũi. Không chỉ toả sáng ở phẩm chất trí – dũng song toàn, Đại tướng còn khẳng định ở bậc cao hơn một bậc, đó là phẩm chất “Nhân tướng”. Vị tướng lấy đạo nhân nghĩa làm gốc, trên nền tảng của đường lối Chiến tranh nhân dân và tư tưởng nhân văn “đem đại nghĩa để thắng hung tàn”(3) của tiền nhân đã làm rung động đến trái tim của hàng chục triệu nông dân Việt Nam. Họ là những người cha, người mẹ, anh chị em, con cháu… của những người lính từ ngày thành lập Quân đội Nhân dân Việt Nam đến nay.

Phẩm chất “Nhân tướng” ấy bộc lộ ở nhiều tầng ý nghĩa, mà tầng nào cũng có sức rung động lòng người:

(1) Ngay từ khi cao trào Xô Viết Nghệ Tĩnh nổ ra, chàng thanh niên yêu nước ấy đã bất chấp “gươm kề tận cổ, súng kề tai”(4) để bước vào vị trí hiểm nguy hàng đầu trong mặt trận đấu tranh cách mạng. Đó là dấu hiệu sớm dự báo cho giai cấp Nông dân Việt Nam về một nhân vật “Thánh Gióng” trong thời đại mới, một người Anh hùng đủ tầm vóc đại diện cho họ “cầm thanh gươm nghìn cân ra trận”(5). Bằng cả cuộc đời 103 năm huyền thoại của mình, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, với thiên tài dùng người của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã có những chiến công sáng chói, góp phần quan trọng, và ở một số thời điểm đã góp phần quyết định, cùng Đảng và nhân dân ta chiến thắng oanh liệt, đạt mục tiêu giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, đem lại tự do cho nhân dân, ruộng đất cho dân cày.

(2) Từ thuở ban đầu chỉ huy 34 chiến sỹ – nông dân cầm súng của Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân (22/12/1944), cho đến vị trí Tổng Tư lệnh các lực lượng vũ trang, Đại tướng Võ Nguyên Giáp luôn tỏ ra là một vị tướng thông minh, bản lĩnh, cứng rắn với kẻ thù, nhưng lại rất thương yêu binh sĩ – lực lượng vốn hầu hết xuất thân từ giai cấp Nông dân. Trong hồi ký của mình, Đại tướng từng chia sẻ: Phải chỉ huy một đội quân trang bị nghèo nàn chống lại những đội quân trang bị tối tân, không thể nào giành chiến thắng mà không cần phải hy sinh, ông không thể thay đổi điều đó mà chỉ có thể tìm cách hạn chế tối đa mức độ hy sinh. Đại tướng đã ra quyết định khó khăn nhất của cuộc đời ông: Hoãn cuộc tiến công “đánh nhanh thắng nhanh” trong Chiến dịch Điện Biên Phủ thêm gần 2 tháng để thay đổi phương án tác chiến sang “đánh chắc, tiến chắc”, giảm thiểu tổn thất và bảo đảm thắng lợi cuối cùng. Cố Thượng tướng Trần Văn Trà trong hồi ký của mình, từng viết về Đại tướng: “Anh Văn được hưởng niềm yêu mến gần như tuyệt đối của toàn quân… Anh là Tư lệnh của các Tư lệnh, Chính ủy của các Chính ủy, là Tổng Tư lệnh biết đau với từng vết thương của người lính, biết tiếc từng giọt máu của mỗi chiến binh. Anh Văn trở thành cây đa rợp bóng mát tình yêu thương đồng đội”… “Có trận thắng vang dội, nhưng mất nhiều lính quá, người ta vỗ tay rầm trời, còn Đại tướng thì lặng lẽ khóc ở Sở chỉ huy. Nhiều khi úp mặt xuống phên tre mà khóc, nước mắt đầm đìa cả cái gối mây. Những điều ấy thì không phải ai cũng biết…”.

Tâm thế “tướng sĩ một lòng phụ tử” ấy đã đưa Đại tướng Võ Nguyên Giáp trở thành vị tướng trọn vẹn trong tim người lính cũng như trong lòng người nông dân. Vì vậy, không có gì khó hiểu khi Đại tướng Võ Nguyên Giáp từ trần vào ngày 4/10/2013, cán bộ, hội viên nông dân khắp nơi trong cả nước để tang bày tỏ tiếc thương, nhiều gia đình nông dân đã đưa hình ảnh Đại tướng lên bàn thờ, ngay dưới ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh, bên cạnh di ảnh của các bậc gia tiên của họ.

Thứ ba, Đại tướng Võ Nguyên Giáp có tầm nhìn xa trông rộng và có tư duy khoa học về phát triển nông lâm, ngư nghiệp bền vững và quy tụ được sự ủng hộ, hỗ trợ nhiệt thành của các nhà nghiên cứu khoa học.

Đến khi đất nước thống nhất, cả nước đi lên Chủ nghĩa xã hội, nhiều giải pháp được đặt ra trong “Vấn đề dân cày” đã được hiện thực hoá. Tuy nhiên, hiện trạng nông nghiệp, nông dân, nông thôn sau năm 1975, đặc biệt là trong hơn 30 năm Đổi mới, dù đạt được nhiều thành tựu, vẫn còn đó những vấn đề không dễ giải quyết. Từng là một chuyên gia về dân cày, Đại tướng hiểu rằng, người nông dân của thời kỳ mới đã khác với giai đoạn trước. Bên cạnh những thành tựu, họ cũng đang đối mặt với khó khăn thử thách mới. Trên cương vị Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng hay Chủ nhiệm Uỷ ban Khoa học Nhà nước, với uy tín và trí tuệ mẫn tiệp của mình, Đại tướng đã quy tụ được sự quan tâm, ủng hộ và kính trọng của đội ngũ nhà khoa học trong và ngoài nước, đặc biệt là các nhà khoa học nông nghiệp. Vì vậy, mỗi ý kiến chỉ đạo hay gợi ý của Đại tướng về khai thác kinh tế biển, khai thác năng lượng thuỷ triều, đưa khoa học kỹ thuật công nghệ vào phát triển nông nghiệp, bảo vệ môi trường để phát triển bền vững và nhiều lĩnh vực khác… vẫn mang tầm chiến lược, thậm chí có những ý tưởng sớm hàng chục năm.

Người nông dân Hậu Giang, Cần Thơ vẫn còn nhớ, vào mùa Hè năm 1977, Đại tướng đến thăm Trường Đại học Cần Thơ, và nóng lòng đi ngay ra ruộng thí nghiệm để xem các giống lúa đang trồng thử nghiệm, xem cánh đồng nhân giống lúa kháng rầy nâu IR36 để trồng ở các địa phương có diện tích lúa đang bị rầy nâu tàn phá nặng nề. Đại tướng tỏ ra phấn khởi khi thấy các giống lúa phát triển rất tốt trên đồng ruộng thí nghiệm và căn dặn thầy cô giáo và sinh viên Đại học Cần Thơ: Lịch sử thế giới cho thấy quốc gia nào cũng thế, sau nhiều năm chiến tranh tàn phá thì nạn thiếu ăn luôn xảy ra, nên các chuyên gia cây lương thực phải hết sức tham gia vào công cuộc an ninh lương thực, riêng trường Đại học có thêm thế mạnh là có nhiều sinh viên, có thể huy động để tham gia phục vụ xã hội. Giáo sư, TSKH, Anh hùng Lao động Võ Tòng Xuân – một chứng nhân của sự kiện đó kể lại: Thực hiện lời của Đại tướng, vào vụ Đông Xuân 1977 – 1978, thầy trò Đại học Cần Thơ đã đóng cửa trường trong hai tháng, mang 2.000kg lúa giống IR36 để cấy tại 2.000 điểm bị rầy nâu tàn phá. Từ 2.000 điểm đó, nông dân chia nhau nhân nhanh giống, chỉ trong hai vụ lúa là đã chặn đứng “giặc rầy nâu”.

Ngư dân Việt Nam không quên vào năm 1977, sau khi đi thăm các đảo Côn Lôn, Thổ Chu, Cô Tô và hai tỉnh duyên hải miền Trung là Phú Yên, Khánh Hòa, Đại tướng Võ Nguyên Giáp với cương vị là Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng đã triệu tập hội nghị lần thứ nhất về biển tại Nha Trang. “Chúng ta cần phải nhanh chóng khắc phục sự lạc hậu trong hiểu biết về biển cả, để góp phần thúc đẩy việc khai thác tốt hơn những nguồn lợi mà biển cả sẽ đem lại cho đất nước ta”(6). Tại đây, Đại tướng đã đặt hàng cho các nhà khoa học nghiên cứu về điện thuỷ triều và nhiều nội dung mới khác. Bảy năm sau, tại Hội nghị khoa học về biển lần thứ III diễn ra ngày 8/6/1985, Đại tướng Võ Nguyên Giáp tiếp tục phân tích những giá trị to lớn của Biển Đông về kinh tế, quốc phòng, an ninh và thẳng thắn nhìn nhận chúng ta còn chưa chú trọng phát triển kinh tế biển, thiếu tư duy tiến ra biển. Đại tướng nói: “Phải đặc biệt chú trọng kết hợp kinh tế với quốc phòng và an ninh… Việc phân bố lực lượng sản xuất, phân bố lại lao động, phát triển kinh tế biển của các ngành, các địa phương phải theo sự bố trí chiến lược thống nhất, nhằm làm chủ cả về kinh tế và quốc phòng. Thế bố trí về mặt địa bàn vừa tạo điều kiện khai thác toàn diện và tổng hợp các nguồn tài nguyên, vừa hình thành một thế trận liên hoàn có chiều sâu, thuận lợi cho tác chiến”(7).

Đại tướng nói cần xây dựng vùng biển vững mạnh về kinh tế, có đời sống văn hóa và tinh thần tốt đẹp, phát triển đồng đều trên suốt dải ven biển. Có xây dựng vùng biển giàu mạnh thì mới có thể giữ biển được vững chắc. Đặc biệt, phải đẩy mạnh phát triển du lịch ven biển… Như vậy, với những nhận định và định hướng mang tầm chiến lược từ rất sớm ấy, có thể nói Đại tướng Võ Nguyên Giáp là người đầu tiên đề xuất về chiến lược biển toàn diện, mà sau này, đến đầu thế kỷ XXI, chúng ta mới hiện thực hoá bằng các chủ trương, cơ chế, chính sách cụ thể, chi tiết.

Thứ tư, Đại tướng Võ Nguyên Giáp là người đã hiện thực hoá thành công đường lối “Chiến tranh nhân dân” trong thời đại Hồ Chí Minh với việc nhìn thấy và huy động được sức mạnh từ mỗi người người nông dân như một người chiến sỹ trong cuộc chiến giải phóng dân tộc và bảo vệ sự sinh tồn của đất nước.

Đường lối “Chiến tranh nhân dân” không phải đến thế kỷ XX chúng ta mới có. Trong hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, cha ông ta trong nhiều triều đại như Đinh, Lý, Trần, Lê… qua quá trình chống giặc ngoại xâm đã hình thành và và áp dụng chiến tranh nhân dân với nhiều hình thức sáng tạo, hiệu quả. Nhưng chỉ dưới ngọn cờ cách mạng do Đảng ta lãnh đạo, giai cấp Công – Nông là lực lượng nòng cốt, đoàn kết các giai tầng yêu nước khác để thực hiện cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và cuộc cách mạng dân chủ, nhân dân, thì giai cấp Nông dân, người nông dân mới được đặt vào một vai trò chính trị nền tảng. Với tầm nhìn của một chính trị gia xuất sắc và tài năng quân sự mẫn tiệp, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã không chỉ đã tổ chức, rèn luyện và lãnh đạo một đội quân từ những nông dân mặc áo lính đến quân đội chính quy, mà còn rất tài tình trong việc huy động từng người dân, trong đó phần lớn là người nông dân dân tham gia vào đội quân cách mạng.

Điển hình là trong chiến dịch Điện Biên Phủ, lực lượng dân công hoả tuyến với hơn 2 vạn người và xe thồ được gọi vui là một “binh chủng” đặc biệt bên cạnh những binh chủng của quân đội – “binh chủng” có một không hai trong lịch sử quân sự thế giới. Đội dân binh làm công tác hậu cần này được trang bị thô sơ nhưng với tinh thần yêu nước, được giác ngộ và được lãnh đạo bởi Tướng Giáp đã thể hiện sức mạnh vượt xa tưởng tượng của quân viễn chinh Pháp vốn ỷ vào lực lượng hùng mạnh và máy bay tiếp tế qua đường hàng không thời thời bấy giờ. “Binh chủng xe thồ” của những dân binh thế kỷ XX đã vận chuyển thông suốt hàng nghìn tấn hàng hóa cho tiền tuyến, không thua kém bất cứ phương tiện tối tân nào, góp phần làm nên chiến thắng quyết định tại Điện Biên Phủ. Và với chiến thắng Điện Biên Phủ, hay những trận chiến khác, Đại tướng nhiều lần nói rằng đó không phải chỉ là chiến thắng của Quân đội, mà chính xác là chiến thắng của Nhân dân, có đóng góp quyết định của lực lượng nông dân.

Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đại tướng Võ Nguyên Giáp năm 1957. Ảnh: AP

Chiến tranh nhân dân, theo Đại tướng lý giải, nếu gói gọn trong 1 từ, đó là cuộc chiến “vì dân” và “do dân”, “Vì dân là vì mục tiêu chiến tranh là mục tiêu của nhân dân, như là độc lập, thống nhất đất nước, và hạnh phúc cho mọi người. Còn do dân nghĩa là thường dân, không chỉ là quân đội mà bao gồm tất cả người dân… Chúng tôi biết rằng chính nhân tố con người chứ không phải các nguồn lực vật chất quyết định kết quả của cuộc chiến. Đó là lý do vì sao mà cuộc chiến nhân dân của chúng tôi, do Hồ Chí Minh lãnh đạo, lại diễn ra trên một quy mô lớn như vậy. Nó lôi cuốn sự tham gia của toàn thể dân chúng”(8).

Trong tư duy xây dựng các lực lượng vũ trang bảo vệ Tổ quốc cũng như xây dựng nền Quốc phòng toàn dân của Đảng ta do Đảng lãnh đạo, và lực lượng nông dân luôn được coi trọng và trở thành bộ phận không thể thiếu. Và trong thời đại Hồ Chí Minh, với tài cầm quân cũng như tư duy của Đại tướng, người nông dân vinh dự được nhìn nhận như một vai trò chính, được góp công sức xương máu của mình để giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ gần 100 năm của thực dân Pháp và ách áp bức của phong kiến hàng ngàn năm qua!

Thứ năm, tình cảm của Tướng Giáp đối với người nông dân đã vượt lên cao hơn mối quan hệ tình cảm, trách nhiệm lãnh đạo – công dân, ở một chừng mực nào đó, Đại tướng đã mang phẩm chất của người quy tụ tinh thần, là một hiện thân lý tưởng cách mạng cao đẹp của Đảng và Bác Hồ, khao khát thực hiện đến cùng việc chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho người nông dân. Dù trên cương vị lãnh đạo Đảng, Nhà nước, lãnh đạo các lực lượng vũ trang hay sau ngày nghỉ hưu ở tuổi 80 (năm 1991), Đại tướng Võ Nguyên Giáp vẫn tiếp tục dành nhiều tình cảm yêu thương, trân trọng, chăm lo đối với cuộc sống người nông dân, hoạt động của Hội Nông dân Việt Nam. Trong mỗi câu chuyện nhỏ đời thường hay vấn đề quan trọng của đất nước có liên quan đến cuộc sống của nông dân, những ý kiến của Đại tướng đều mang ý nghĩa sâu sắc, tầm nhìn xa trông rộng và khả năng chuyển hoá to lớn.

Trong ký ức của nhiều cán bộ Hội Nông dân Việt Nam vẫn còn nhớ đến việc vào một thời điểm cụ thể sau năm 2000, ngành Thuế đã dự thảo chính sách dự kiến đưa đối tượng nông dân sản xuất kinh doanh giỏi (những hộ có thu nhập cao hàng trăm triệu đồng/năm trở lên) vào diện chịu thuế thu nhập cá nhân. Tuy nhiên, trong bối cảnh Việt Nam là một trong những quốc gia hứng chịu thiên tai thường xuyên nhất, tính chất sản xuất, kinh doanh nông nghiệp của đại đa số nông dân, kể cả nông dân sản xuất giỏi vẫn phải chịu nhiều rủi ro, trong khi đó bảo hiểm nông nghiệp vẫn chưa được triển khai. Triệu phú cũng có thể trắng tay sau một trận bão lũ. Vì vậy Hội Nông dân Việt Nam đã lên tiếng kiến nghị ngành Thuế chưa đưa nông dân vào diện đóng thuế thu nhập cá nhân để tạo điều kiện cho phong trào nông dân sản xuất giỏi phát triển mạnh hơn nữa. Biết được tin này, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã gọi điện, viết thư đến một số nơi cần đến, đề nghị Đảng và Nhà nước chưa đánh thuế thu nhập đối với các hộ nông dân giỏi có thành công bước đầu. Sau đó, việc thu thuế thu nhập đối với các hộ nông dân sản xuất kinh doanh giỏi đã không trở thành chính sách. Đại tướng là người góp tiếng nói chung để có kết quả này.

Trong một lần về thăm quê vào năm 1990, Đại tướng đã đến thăm, làm việc và trò chuyện với cán bộ Hội Nông dân Quảng Bình. Đại tướng nói: “Tôi làm quân sự, nhưng từng là chuyên gia dân cày nên rất quan tâm đến nông dân và công tác Hội Nông dân”. Đại tướng căn dặn: “Quảng Bình trong chiến tranh là tuyến lửa, bị tàn phá nặng nề. Bây giờ hòa bình rồi, nhưng Quảng Bình lại nằm trong vùng thiên tai khắc nghiệt, cát trắng, gió Lào, nền nông nghiệp phụ thuộc vào tự nhiên, đời sống bà con còn khó khăn, nghèo khổ. Hội Nông dân phải nỗ lực hơn nữa để vươn lên xây dựng Hội vững mạnh, làm tốt chức năng của mình, vận đông bà con nông dân làm tốt thủy lợi, thâm canh các loại cây con có hiệu quả kinh tế cao để xóa đói giảm nghèo, vươn lên làm giàu. Đặc biệt Hội phải chống cho được tư tưởng bảo thủ, phải tiếp thu khoa học kỹ thuật, áp dụng vào sản xuất để có năng suất cao. Làm thế nào Hội phải là chỗ dựa vững chắc cho bà con vươn lên…”. Đại tướng căn dặn thêm, phải phát triển nền kinh tế hàng hóa, xây dựng nền nông nghiệp phát triển toàn diện, nếu độc canh, độc nông thì nghèo; nghiên cứu để phát triển kinh tế vùng gò đồi; phải trồng rừng nhiều hơn nữa, phải trồng cây gây rừng phủ xanh đồi cát, để phát triển bền vững.

Trong một lần khác về thăm quê, Đại tướng đã đến thăm bà Phạm Thị Nghèng ở Quang Phú (Đồng Hới, Quảng Bình) – người phụ nữ được Đảng và Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động vì thành tích chủ động trồng rừng chắn cát trong 40 năm mà không hưởng lương. Đại tướng xúc động: “Quảng Bình cát trắng, gió Tây Nam (gió Lào), nếu ai cũng làm được như mẹ Nghèng thì tốt biết mấy!

Nếu không có những cuộc chiến tranh và không trở thành một vị tướng cầm quân, tôi rất muốn được làm một người trồng rừng chống cát cho quê hương như mẹ Nghèng!”. Với lời tâm tình mộc mạc ấy, Đại tướng đã đặt mình vào vai người nông dân, xoá đi hoàn toàn khoảng cách giữa một vị danh tướng thế kỷ và người nông dân chân chất bình dị.

Thứ sáu, trong suốt cuộc đời cách mạng từ gian khổ đến vinh quang lừng lẫy, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đặc biệt giữ gìn kỷ luật của người cán bộ cách mạng, nêu gương sáng và để lại nhiều bài học quý cho việc xây dựng văn hoá nông thôn mới. Có rất nhiều câu chuyện cảm động đã dược báo chí và các địa phương đã lưu lại như những kỷ niệm quý giá. Không ở đâu xa, ngay đối với một việc nội bộ dòng tộc mình là xây nhà thờ họ, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã ứng xử rất hài hoà và để lại cho các dòng tộc nói chung, đặc biệt cho những người cán bộ có chức sắc một bài học nhẹ nhàng nhưng lay động. Đó là chuyện vào năm 2003, phái 2 của dòng họ Võ bàn chuyện xây dựng nhà thờ họ. Lúc đầu, các cụ cao niên trong phái thống nhất mua gỗ lim để làm và đã được Công ty Lâm công nghiệp Long Đại đồng ý bán gỗ lim với giá ưu đãi. Tuy nhiên, khi mọi người hỏi ý kiến, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã không đồng ý việc dùng gỗ rừng để làm nhà thờ. Đại tướng nói: “Nếu dùng gỗ lim để làm nhà thờ họ thì chắc chắn, nhưng cả nước này có hàng nghìn, hàng vạn dòng họ cần làm nhà thờ, ai cũng như mình mua gỗ rừng để làm thì rừng đâu còn gỗ mà lấy…!”. Cuối cùng phương án được dòng họ chọn là đến Hương Sơn (Hà Tĩnh) tìm mua gỗ mít thay cho gỗ lim như ý định ban đầu. Năm 2004, ngôi nhà thờ họ hoàn thành, Đại tướng về thắp hương. Ông rất vui khi thấy ngôi từ đường làm bằng gỗ mít cũng rất đẹp và chắc chắn. Đại tướng không quên chuyện cũ và nói với bà con trong dòng họ: “Rừng có vai trò cực kỳ quan trọng đối với môi trường sống của tất cả chúng ta. Chính rừng đã điều hòa nguồn nước, khí hậu giúp chúng ta tránh khỏi thiên tai, bão lụt. Trách nhiệm bảo vệ rừng cũng không phải của riêng lực lượng chức năng mà của tất cả mọi người dân. Vì vậy, vừa rồi chúng ta đã đổi gỗ lim sang gỗ mít để làm nhà thờ, mục đích tránh được một phần ảnh hưởng xấu đến rừng, là một việc rất nên làm”(9). Đó là một câu chuyện đẹp về cách hành xử văn minh và tôn trọng đối với văn hoá truyền thống Việt Nam, đồng thời có gợi ý sâu xa cho Chương trình Nông thôn mới của thế kỷ XXI mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đang xây dựng hiện nay.

Còn nhiều, rất nhiều câu chuyện cảm động và ý nghĩa giữa Đại tướng Võ Nguyên Giáp và người nông dân Việt Nam ở nhiều miền đất nước. Ôn lại kỷ niệm về Đại tướng, thêm một lần nữa để khẳng định rằng, Đại tướng sống mãi trong tim người nông dân và giai cấp Nông dân Việt Nam.

Tư tưởng, tình cảm, lời căn dặn của Đại tướng với bà con nông dân, với tổ chức Hội và giai cấp Nông dân có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, mang giá trị lý luận và thực tiễn vô cùng sâu sắc. Tự hào và tưởng nhớ Đại tướng Võ Nguyên Giáp, các cấp Hội, cán bộ, hội viên, nông dân cả nước tiếp tục phát huy những thành tích đạt được, phát huy truyền thống cách mạng vẻ vang của giai cấp Nông dân và Hội Nông dân Việt Nam nêu cao vai trò, trách nhiệm trước Đảng, trước anh linh Bác Hồ kính yêu và Đại tướng Võ Nguyên Giáp, không ngừng đổi mới nội dung phương thức hoạt động cho phù hợp yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới, xây dựng tổ chức Hội ngày càng trong sạch, vững mạnh, triển khai toàn diện, hiệu quả các nhiệm vụ mà Nghị quyết Đại hội VII Hội Nông dân Việt Nam nhiệm kỳ 2018 – 2023 đã đề ra, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng về mục tiêu xây dựng thành công mô hình nông nghiệp sinh thái, nông dân văn minh và nông thôn hiện đại.

Đinh Khắc Đính – Phó Chủ tịch BCH T.Ư Hội Nông dân Việt Nam

(1) Cách mạng tháng Mười thành công ở nước Nga Xô Viết. Ý trong bài thơ “Người đi tìm hình của nước” (Chế Lan Viên).
(2) Năm 1938, Lịch sử Biên niên Đảng Cộng sản Việt Nam – Tập 2, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Hà Nội – 2008.
(3) Trích “Bình Ngô đại cáo”. Nguyễn Trãi.
(4) Ý thơ Tố Hữu.
(5) Ý trong bài thơ “Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng”. Chế Lan Viên.
(6) Nguồn: Sách “Võ Nguyên Giáp – Hào khí trăm năm (Nhà xuất bản Trẻ, 2012). Tác giả Trần Thái Bình.
(7) Sách đã dẫn
(8) “Tướng Giáp phân tích về Chiến tranh nhân dân trên đài Mỹ”. Đài Tiếng nói Việt Nam, 6/10/2013; https://vov.vn/the-gioi/ho-so/tuong-giap-phan-tich-ve-chien-tranh-nhan-dan-tren-dai-my-284019.vov
(9) Nguồn: Báo Tiền Phong, 3/02/2019: https://tienphong.vn/dai-tuong-vo-nguyen-giap-va-tu-duy-xanh-post1085358.tpo