Công ty Phân lân nung chảy Văn Điển

Thực trạng và giải pháp để phát triển các ngành công nghiệp văn hóa ở Việt Nam

Việt Nam đang có những nỗ lực mạnh mẽ trong việc hoàn thiện thể chế, chính sách nhằm thúc đẩy phát triển các ngành công nghiệp văn hóa. Tuy nhiên hiện nay, công nghiệp văn hóa chưa phát huy hết tiềm năng, thế mạnh của nguồn tài nguyên văn hóa vốn rất phong phú của Việt Nam.
Du khách nước ngoài nghe giới thiệu và trải nghiệm chơi nhạc cụ dân tộc truyền thống tại Đại Nội Huế. Ảnh: TL

Hiệu quả đổi mới thể chế trong lĩnh vực công nghiệp văn hóa

Thành công mang tính nền tảng đối với ngành công nghiệp văn hoá Việt Nam đó là sự thay đổi trong nhận thức của Đảng và Nhà nước về vai trò và vị trí của ngành trong nền kinh tế. Trong Chiến lược Phát triển văn hóa đến năm 2020, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đã khẳng định: Công nghiệp văn hóa “đang là xu thế lớn và quan trọng trong chính sách văn hoá của các nước trên thế giới”. Từ đó, Chiến lược đề xuất giải pháp tạo điều kiện, môi trường thuận lợi về mặt cơ chế, chính sách và kinh doanh để phát triển ngành công nghiệp văn hóa, thể hiện chủ trương gắn kết phát triển văn hóa và phát triển kinh tế. Đặc biệt, năm 2016, Việt Nam đã ban hành Chiến lược Phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030. 

Nếu như trước 2016, công nghiệp văn hóa còn là một khái niệm gây nhiều tranh cãi ở Việt Nam, thì đến năm 2018, kết quả khảo sát của nhóm nghiên cứu cho thấy, tại Việt Nam ngành được nhiều người biết đến nhất là Truyền hình - Phát thanh và Điện ảnh (85%). Tiếp đến là những ngành Quảng cáo; Kiến trúc; Du lịch văn hóa; Nghệ thuật biểu diễn; Mỹ thuật, Nhiếp ảnh và Triển lãm; Thủ công mỹ nghệ; Xuất bản; Thiết kế; Thời trang. 

Phát triển công nghiệp văn hóa đang được nhìn nhận như một ngành kinh tế có khả năng nâng cao năng lực cạnh tranh của thị trường trong và ngoài nước của Việt Nam. Tuy nhiên, các ngành công nghiệp văn hóa chưa phát huy tiềm năng, lợi thế về nguồn tài nguyên mềm văn hóa, với một số ngành, việc chuyển đổi từ tài nguyên mềm thông qua lựa chọn các thành tố phù hợp tạo nên chuỗi giá trị sáng tạo, sản xuất sản phẩm và dịch vụ văn hóa có khả năng thu hút thị trường văn hóa trong và ngoài nước vẫn chưa đạt được hiệu quả cao.

Có thể thấy, các sản phẩm công nghiệp văn hóa Việt Nam thiếu đi sự độc đáo, tính ứng dụng và cách thể hiện sống động bản sắc văn hóa. Do đó, chưa đáp ứng nhu cầu hưởng thụ và tiêu dùng văn hóa ngày càng cao người dân trong nước. Điều này dẫn đến thị trường văn hóa trong nước đang bị xâm lấn bởi các sản phẩm công nghiệp văn hóa đến từ các cường quốc văn hóa cùng khu vực châu Á với Việt Nam như: Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc.

Mặt khác, việc chưa xem công nghiệp văn hóa là một lĩnh vực có sự kết hợp chặt chẽ giữa sáng tạo, công nghệ và bản quyền đã làm cho nguồn tài nguyên này chưa tạo được ấn tượng thu hút đối với cảm nhận của người nước ngoài.

Người dân Italia hào hứng với nghệ thuật múa rối nước Việt Nam ở triển lãm Không gian Văn hóa Việt Nam và biễu diễn chương trình văn hóa nghệ thuật dân gian Việt Nam tại Trung tâm Triển lãm thành phố Carrara (Italia). Ảnh: TTXVN

Một số đề xuất mục tiêu, giải pháp để phát huy hiệu quả công nghiệp văn hóa

Theo PGS.TS. Nguyễn Thị Thu Phương, trong thời gian tới, muốn phát huy hiệu quả sức mạnh mềm văn hóa thông qua chuyển hóa các tài nguyên văn hóa thành các sản phẩm, dịch vụ công nghiệp văn hóa, từ góc độ thể chế Việt Nam cần xác định hệ thống quan điểm, mục tiêu, giải pháp phát triển công nghiệp văn hóa như sau: 

Phát triển công nghiệp văn hóa theo hướng hài hòa giữa kinh tế và văn hóa; bảo đảm yếu tố văn hóa và con người trong phát triển kinh tế. Xây dựng và phát triển công nghiệp văn hóa thích ứng với xu thế phát triển của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 và các công nghệ mới, hiện đại. 

Chủ động hợp tác, xúc tiến thương mại và quảng bá các sản phẩm công nghiệp văn hóa của Việt Nam ra thế giới nhằm mở rộng thị trường, nâng cao vị thế đất nước trên trường quốc tế. Ưu tiên phát triển một số ngành công nghiệp văn hóa có tiềm năng, lợi thế.
Kiện toàn khung thể chế, chính sách nhằm tháo gỡ kịp thời những rào cản, vướng mắc, khó khăn, phát huy mọi tiềm năng, nguồn lực, tạo động lực cho công nghiệp văn hóa phát triển theo hướng đáp ứng yêu cầu thị trường đầy đủ, hiện đại, hội nhập quốc tế; Tập trung sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật về: Điện ảnh, Di sản văn hóa, Sở hữu trí tuệ, Quảng cáo... Hoàn thiện, bổ sung các quy định pháp luật về quyền tác giả, quyền liên quan đáp ứng yêu cầu bảo hộ và thực thi quyền trong nước và hội nhập quốc tế... Xây dựng, đề xuất các chính sách ưu đãi về vốn, thuế, đất đai, doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực văn hóa. Hoàn thiện chính sách đặt hàng, ưu đãi khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư phát triển các ngành công nghiệp văn hóa có lợi thế, tiềm năng như: điện ảnh, nghệ thuật biểu diễn, du lịch văn hóa… 

Xây dựng cơ sở dữ liệu văn hóa quốc gia; Bộ chỉ số văn hóa quốc gia vì sự phát triển bền vững, bảo đảm kết nối, tích hợp đồng bộ với hệ cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu của Đề án Hệ Tri thức Việt số hóa; Phát triển những sản phẩm, dịch vụ công nghiệp văn hóa độc đáo, sáng tạo; tạo cơ chế phối hợp tăng cường quảng bá, xúc tiến thương mại, đẩy mạnh xuất khẩu các sản phẩm, dịch vụ công nghiệp văn hóa, từng bước xây dựng và phát triển thương hiệu Việt Nam có uy tín trên thị trường trong và ngoài nước; Ưu tiên phát triển một số ngành công nghiệp văn hóa có tiềm năng, lợi thế, như: Điện ảnh, nghệ thuật biểu diễn, mỹ thuật, nhiếp ảnh, triển lãm, du lịch văn hóa..., từng bước nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngành công nghiệp văn hóa. 

Đổi mới cơ chế đầu tư tài chính trong lĩnh vực công nghiệp văn hóa. Việc bồi dưỡng năng lực sáng tạo và tạo môi trường sáng tạo cho những tài năng văn hóa (văn nghệ sĩ, trí thức khoa học công nghệ…).

Tăng cường cơ chế hợp tác công - tư trong quá trình đa dạng hóa các sản phẩm - dịch vụ văn hóa nhằm thỏa mãn nhu cầu hưởng thụ văn hóa của các đối tượng khác nhau. Đầu tư phát triển hạ tầng các ngành công nghiệp văn hóa, điều này mang tính quyết định đến sự thành công của quá trình chuyển hóa nguồn tài nguyên văn hóa thành các sản phẩm văn hóa từ đó làm nên sức mạnh mềm văn hóa. Đổi mới phương thức khai thác, tăng cường kết nối truyền thống với hiện đại trong sáng tạo, sản xuất, phân phối các sản phẩm, dịch vụ công nghiệp văn hóa. 

“Kinh nghiệm quốc tế đã cho thấy, các quốc gia phát triển (Mỹ và phương Tây, Nhật Bản, Hàn Quốc) đều phát triển các ngành điện ảnh, âm nhạc, games… trên cơ sở hệ thống ICT phát triển, đảm bảo chất lượng truyền tải, kênh tiếp cận và đánh giá nhu cầu thị trường để có những chiến lược tiếp cận hiệu quả mang lai sức cạnh tranh của ngành công nghiệp văn hóa trong nước. Vì vậy, việc phát triển các cơ sở hạ tầng sẽ giúp Việt Nam đảm bảo nền tảng số hóa thuận lợi cho sự phát triển các nguồn lực quyền lực mềm, gia tăng khả năng và cách thức tiếp cận đến đối tượng, mang lại năng lực thích ứng nhanh trước các xu hướng thị trường trong ngành công nghiệp văn hóa”.
PGS.TS. Nguyễn Thị Thu Phương