Công ty Phân lân nung chảy Văn Điển

Việt Nam là quốc gia “hàng đầu” sử dụng thuốc BVTV trong khu vực

01:18 29/08/2018 GMT+7

Với 2kg/ha/năm, khối lượng hoạt chất thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) sử dụng trên 1ha cây trồng ở Việt Nam cao hơn hẳn một số nước trong khu vực như Thái Lan, Bangladesh.

Phát biểu tại Hội thảo “Thực trạng, thách thức trong quản lý và sử dụng thuốc trừ cỏ tại Việt Nam” do Tổng hội Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tổ chức chiều 28/8, tại Hà Nội, ông Hồ Xuân Hùng, Chủ tịch Tổng hội Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam đánh giá: Việt Nam là một trong những quốc gia sử dụng thuốc BVTV nhiều và khó kiểm soát.

Những cách đồng ‘tắm’ thuốc, Ảnh: Sustainablepulse

Ông Hùng viện dẫn số liệu của Viện Tài nguyên môi trường quốc tế nêu rõ: Khối lượng hoạt chất thuốc BVTV trên 1ha cây trồng/năm ở Việt Nam cao hơn hẳn một số nước trong khu vực. Cụ thể, con số này ở Việt Nam là 2kg/ha, trong khi tại Thái Lan là 1,8kg/ha, Bangladesh là 1,1kg/ha và Senegan chỉ là 0,2kg/ha. “Trong số các loại thuốc BVTV, thuốc trừ cỏ hiện nay vẫn chiếm vai trò quan trọng trong sản xuất nông nghiệp, giúp cải thiện sức lao động cho người nông dân. Tuy nhiên, ngày càng xuất hiện tình trạng lạm dụng thuốc trừ cỏ đem đến nhiều hệ lụy tác hại cho sản xuất, môi trường, sức khỏe cộng đồng, đe dọa sự phát triển bền vững của nông nghiệp. Vì vậy, tăng cường quản lý sản xuất, kinh doanh và sử dụng thuốc trừ cỏ là một yêu cầu đặc biệt cấp bách hiện nay”, ông Hùng nhấn mạnh.

Xung quanh câu chuyện sử  dụng thuốc BVTV nói chung, thuốc trừ cỏ nói riêng ở Việt Nam, PGS. TS Nguyễn Xuân Hồng, nguyên Cục trưởng Cục BVTV (Bộ NN&PTNT) nhận định, thuốc trừ cỏ có vai trò quan trọng trong sản xuất nông nghiệp. Nếu không có tác động của các biện pháp BVTV, sâu bệnh hại và cỏ dại có thể làm giảm năng suất cây trồng 70-75%, trong đó riêng cỏ dại làm giảm năng suất 40-45%.

Hiện nay, danh mục thuốc trừ cỏ được phép sử dụng tại Việt Nam gồm 234 hoạt chất và hỗn hợp các hoạt chất với 713 tên thương phẩm. Trong số các loại thuốc BVTV, thuốc trừ cỏ hóa học được sử dụng với khối lượng nhiều và phổ biến nhất do chi phí thấp, hiệu lực sinh học cao.

Ông Hồng đánh giá: Những năm gần đây, lượng thuốc trừ cỏ được sử dụng trong sản xuất có xu hướng ngày càng tăng. Pháp luật về quản lý thuốc trừ cỏ đã khá đầy đủ, đồng bộ, hài hòa với các nước trong khu vực và trên thế giới. Bên cạnh đó, công nghệ để phân tích, kiểm định chất lượng về thuốc BVTV cũng từng bước được nâng cao.

Tuy nhiên, sản xuất của Việt Nam còn nhỏ, manh mún, hiểu biết của người sử dụng thuốc còn hạn chế. Người nông dân hiện vẫn đang sử dụng thuốc dựa vào thói quen. Trong khi đó, số lượng cửa hàng và người buôn bán thuốc còn quá nhiều, điều kiện kinh doanh còn lỏng lẻo, lực lượng thanh tra mỏng. Ngoài ra, vai trò của chính quyền địa phương trong việc tuyên truyền, hướng dẫn, kiểm tra, giám sát việc buôn bán, sử dụng thuốc trên địa bàn quản lý chưa được quan tâm và phát huy đúng mức.

Để quản lý, sử dụng thuốc trừ cỏ một cách hiệu quả, theo ông Hồng, ngoài việc tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện các quy định của pháp luật về quản lý thuốc theo hướng chặt chẽ, đủ sức răn đe, có thể áp dụng kỹ thuật camera giám sát việc sử dụng thuốc trên đồng ruộng để phát hiện vi phạm và xử lý nghiêm. “Bên cạnh đó, cùng với loại bỏ các thuốc độc hại cần bố trí kinh phí và thực hiện việc đánh giá, phát hiện các thuôc kém chất lượng, hiệu lực thấp để có cơ sở khoa học và thực tiễn loại bỏ khỏi Danh mục thuốc được phép sử dụng ở Việt Nam”, ông Hồng nói.

Liên quan tới vấn đề này, ông Nguyễn Văn Hưng, Chuyên viên cao cấp, Vụ Nông nghiệp (Văn phòng Chính phủ) kiến nghị, cần sớm xây dựng chiến lược sử dụng thuôc BVTV ở  Việt Nam trong 10-15 năm tới nhằm giảm nguy cơ, giảm thiểu sử dụng thuốc BVTV; cần có lộ trình giảm lượng thuốc BVTV sử dụng từ nay đến năm 2020, giảm 30-40% mỗi năm, đặc biệt trên lúa, rau, chè, quả, vùng nông sản xuất khẩu; giảm số lượng hoạt chất trong danh mục khoảng 30-40%; giảm số sản phẩm thương mại cho một hoạt chất; nâng tỷ lệ thuốc sinh học, thuốc thân thiện với môi trường lên 40-60% từ nay đến năm 2020…

Đại diện CropLife Việt Nam (tổ chức quốc tế hoạt động với phương châm ứng dụng khoa học vào nông nghiệp) cho hay: Nếu không có các sản phẩm thuốc trừ cỏ hóa học, gần một nửa sản lượng nông nghiệp sẽ bị thiệt hại, từ khoảng 40-50%. CropLife ủng hộ và hỗ trợ các cơ quan Chính phủ Việt Nam về chủ trương thắt chặt công tác quản lý thuốc BVTV (trong đó có thuốc trừ cỏ) nhằm đảm bảo an toàn và lợi ích cho nông dân, người tiêu dùng và môi trường kinh doanh minh bạch. Tuy nhiên, mọi quyết định pháp lý trước khi ban hành cần dựa trên cơ sở khoa học và tiêu chuẩn quốc tế được công nhận, cũng như cân nhắc những đánh giá công khai về tác động kinh tế, xã hội, môi trường với lộ trình phù hợp.

Theo thống kê của Bộ NN&PTNT, trung bình khoảng 5 năm trở lại đây, mỗi năm Việt Nam chi khoảng 500-700 triệu USD để nhập khẩu nguyên liệu và thuốc trừ sâu từ Trung Quốc. Trong số này, chiếm 48% là thuốc trừ cỏ (19.000 tấn), còn thuốc trừ sâu và trừ bệnh chiếm khoảng 32% (16.400 tấn), ngoài ra còn một lượng thuốc điều hòa sinh trưởng khoảng 900 tấn. Thuốc trừ cỏ dùng trên mọi đối tượng cây trồng, trong đó dùng trên lúa là nhiều nhất. 

TN