Công ty Phân lân nung chảy Văn Điển

Nhà nông thông thái cho lúa gieo sạ vụ mùa “ăn” những món gì?

16:49 26/06/2020 GMT+7

Gieo sạ lúa được coi là phương pháp gieo cấy đơn giản, dễ làm, tiết kiệm hạt giống và công lao động. Tuy nhiên, kỹ năng này sẽ giúp nhà nông phát huy tối đa hiệu quả về năng suất, chất lượng khi họ biết sử dụng phân bón thông minh theo từng thời kỳ phát triển của cây lúa vụ mùa.

Nông dân xã Thổ Bình, huyện Lâm Bình, Tuyên Quang thu hoạch lúa mùa. Ảnh minh hoạ. Trung Kiên

Dẫn kết quả nghiên cứu về dinh dưỡng cây lúa, kỹ sư Nguyễn Tiến Chinh – nguyên cán bộ Trung tâm Khuyến nông tỉnh Thái Bình cho biết: Ngoài các chất cacbon, hydro, oxy, cây lúa còn cần đến 19 nguyên tố dinh dưỡng khác Kết quả phân tích khoa học cũng cho thấy, để có cây lúa khỏe, năng suất 5 tấn thóc/ha/vụ thì lượng các chất dinh dưỡng chủ yếu cây lúa  hút từ đất và phân bón là: Đạm (N) : 110kg, lân (P2O5): 34kg, kali (K2O): 156kg, magie (MgO): 23kg, vôi (CaO): 20kg, silic (Si): 440kg, lưu huỳnh (S) : 5kg, mangan (Mn): 2kg, kẽm (Zn): 200g, sắt (Fe): 3,2kg, bo (B): 150g, Cl: 25g.

Như vậy, ngoài các dinh dưỡng đa lượng (N, P, K), cây lúa có nhu cầu silic nhiều gấp hơn 4 lần dinh dưỡng đạm. Lúa còn cần rất nhiều dinh dưỡng trung, vi lượng khác.

Dùng loại phân giàu đạm và kali để “bón thúc”

Cũng theo phân tích của kỹ sư Nguyễn Tiến Chinh, chu kỳ sinh trưởng cây lúa được chia làm 2 giai đoạn chính là “sinh trưởng sinh dưỡng” và “sinh trưởng sinh thực”. Giai đoạn “sinh trưởng sinh dưỡng” được tính từ lúc gieo hạt thóc xuống đất đến lúc lúa đứng cái. Vụ mùa, giai đoạn này thường kéo dài khoảng 30-35 ngày, tùy giống. Bộ rễ phát triển trong lớp đất nông (khoảng 3-5cm) và theo hướng lan rộng theo độ che phủ của lá lúa, khi bộ lá lúa che kín hàng cũng là lúc bộ rễ lúa đan kín mặt ruộng. Nhiệm vụ chính của cây lúa giai đoạn này là đẻ nhánh, vươn lá, vươn bẹ. Nhu cầu dinh dưỡng nhiều nhất là đạm, kali và ít lân cùng một số dinh dưỡng trung, vi lượng.

Như vậy, giai đoạn sinh trưởng sinh dưỡng cây lúa cần nhiều chất đạm và kali để phát triển thân lá thông qua lớp rễ thứ nhất. Căn cứ đặc tính này nên Công ty cổ phần phân lân nung chảy Văn Điển đã sản xuất ra một số loại phân chuyên bón thúc cho lúa. Phân bón đa yếu tố (ĐYT) NPK chuyên bón thúc cho lúa có nhiều loại công thức khác nhau như:

– Phân đa yếu tố NPK(16:5:17) có hàm lượng N=16%, P2O5=5%. K2O=17% Mg=5%, SiO2=7%, CaO= 8%, S=2%…

– Phân đa yếu tố loại NPK 12:5:10 có hàm lượng N=12%, P2O5=5%, K2O=10%, Mg=2%, SiO2=4%, CaO=5%.

Mẫu bao bì phân bón Lúa 1 của Công ty CP Phân lân nung chảy Văn Điển.

Đây là các loại phân có hàm lượng dinh dưỡng đạm cao, giúp cây lúa đẻ khỏe, vươn lá, vươn thân. Hàm lượng dinh dưỡng kali khá cao trong phân bón thúc nhằm “đặt vòng” cho lúa đẻ nhánh vừa phải; kali giúp tăng hiệu suất quang hợp tạo ra nhiều sản phẩm hữu cơ; đồng thời kali vận chuyển dòng nhựa luyện về nuôi các nhánh mới đẻ giúp các nhánh phát triển thành bông hữu hiệu, giúp ruộng lúa thông thoáng  nhưng  khóm lúa gọn, nhiều bông. Ngoài việc cân đối các chất NPK theo nhu cầu cây lúa giai đoạn đẻ nhánh, còn đủ mặt các chất trung, vi lượng giúp cây lúa sinh trưởng khỏe mạnh, chống chịu tốt với sâu bệnh và môi trường bất thuận.

Bón lót bằng sản phẩm “Lúa 1”

Giai đoạn “sinh trưởng sinh thực” được tính từ lúc phân hóa đòng đến lúa chín, được tính từ khi bộ lá lúa đứng hơn, các lá “bằng đầu” hoặc khi lúa bắt đầu cứng gốc, tròn gốc. Từ đây, cây lúa hình thành lớp rễ thứ 2 phát triển xuống các lớp đất phía dưới. Khi cây lúa trỗ bông là lúc thân cây đạt chiều cao lớn nhất thì bộ rễ cũng xuống lớp đế cày và đạt độ “sâu” lớn nhất. Cung cấp đủ dinh dưỡng giai đoạn này giúp quá trình làm đòng, trỗ bông thuận lợi, bộ lá tốt bền và cho bông to, nhiều hạt mẩy. Ngoài các chất trung vi lượng, cây lúa rất cần nhiều Lân và cân đối NK để phân hóa mầm hoa, giúp cứng gốc, chống chịu sâu bệnh và tích lũy đường bột.

Phân ĐYT NPK chuyên bón lót cho lúa có nhiều loại công thức khác nhau như: ĐYT NPK 6:11:3 hoặc ĐYT NPK 5:12:3 , 10:10:5,  có đủ và cân đối các chất dinh dưỡng NPKvà các chất trung vi lượng cần thiết cho cây lúa giai đoạn làm đòng, trỗ bông.

Từ thực tiễn sản xuất và tập quán canh tác của nông dân các tỉnh phía Bắc, nhất là trong tình trạng thiếu lao động hiện nay, Công ty cổ phần phân lân nung chảy Văn Điển đã sản xuất loại phân bón thế hệ mới  chuyên dùng cho lúa: Phân bón đa yếu tố “Lúa 1” – chuyên bón lót và phân bón đa yếu tố “Lúa 2” – chuyên bón thúc.  Nông dân chỉ sử dụng 2 loại phân bón này, không cần bón thêm phân đạm hoặc các loại phân bón khác, vừa dễ làm mà cây lúa  sinh trưởng khỏe, tốt bền, ít sâu bệnh , cho năng suất và hiệu quả kinh tế cao hơn.

Gieo sạ là phương thức gieo cấy nông nhất, hạt thóc giống được đặt ngay trên mặt đất; đây là điều kiện thuận lợi cho cây lúa đẻ nhánh nhiều, đẻ sớm từ những mắt gốc đầu tiên. Vì vậy, lúa gieo sạ thường cho nhiều bông và nhiều bông to hơn lúa cấy. Cây lúa có bông to mà gốc lại đặt nông sẽ rất dễ bị đổ ngã nếu không có cách bón phân theo sinh lý cây lúa… Ruộng lúa gieo sạ phải được bón phân lót đầy đủ hơn và được vùi sâu nhiều hơn.

Công cụ sạ hàng đã được nông dân nhiều nơi trong nước áp dụng. Ảnh minh hoạ – Tư liệu.

Trong các loại phân vô cơ hiện nay, phân lân nung chảy Văn Điển, do công nghệ nấu chảy rồi làm lạnh đột ngột nên phân nung chảy không tan trong nước, không bị các chất sắt (Fe), nhôm (Al) kết tủa thành dạng khó tiêu như các loại phân lân khác. Do vậy, phân Văn Điển sử dụng cho bón lót sẽ không bị thất thoát do bị rửa trôi, bay hơi hay chất gì khác bám giữ. Phân chỉ tan trong môi trường axid  yếu như môi trường do đầu mút rễ cây tiết ra. Do đó khi bón phân lót là “để dành” để chủ động cung cấp đầy đủ và cân đối dinh dưỡng, đáp ứng nhu cầu của cây lúa giai đoạn sinh trưởng sinh thực. Mặt khác phân được vùi xuống các lớp đất phía dưới sẽ kích thích bộ rễ ăn sâu, tạo điều kiện cho cây lúa cứng cáp, cân đối rễ và thân, giúp cây khỏe, không đổ ngã…

Kỹ thuật chăm bón lúa gieo sạ bằng phân bón Văn Điển

Theo kỹ sư Nguyễn Tiến Chinh, để phân bón lót được trộn đều và gửi xuống các lớp đất phía dưới, phân đa yếu tố chuyên bón lót hoặc “Lúa 1” được rải đều ra ruộng trước khi bừa cấy hoặc trước lượt bừa cuối cùng; nếu lo mất nước, mất phân trong khi bừa thì có thể rải phân ngay sau khi bừa xong, khi nước còn đục, bùn còn lỏng. Không nên bón phân lót sau khi nước đã trong, bùn đã lắng. Để lắng bùn, trong nước 1-2 ngày, tháo kiệt nước trong rồi gieo sạ. Nếu sau khi tháo hết nước, mới rải phân lót lên mặt ruộng, làm lầm mặt ruộng rồi gieo vãi thì như vậy vẫn là bón nông vì phân lót tuy được vùi vào đất, song chỉ ở ngay lớp đất dưới mặt ruộng và phục vụ lớp rễ đầu tiên giúp cho cây lúa đẻ nhánh nhiều, vươn lá dài; dễ dẫn tới rối gốc, rối lá, dễ đổ ngã và sâu bệnh nhiều mà năng suất không cao.

Gieo sạ xong cần giữ đủ ẩm mặt ruộng cho cây lúa sinh trưởng, đồng thời xử lý thuốc trừ cỏ tiền nẩy mầm. Bón thúc lần đầu khi cây lúa 2,5 lá tuổi, lúc này có thể bón 3-5 kg phân chuyên thúc lúa hoặc phân đa yếu tố “Lúa 2” nhằm kích thích đẻ nhánh. Sau khoảng 7- 10 ngày tập trung bón  hết phân chuyên bón thúc còn lại.

Mẫu bao bì phân bón Lúa 2 của Công ty CP Phân lân nung chảy Văn Điển.

Để giảm bớt thất thoát phân bón do hiện tượng bốc hơi, rửa trôi hay thẩm lậu… không nên bón phân thúc khi trời nắng nóng và khi ruộng nhiều nước. Nên bón phân khi trời mát và ruộng cạn nước. Để đảm bảo an toàn cho lúa mùa với mức năng suất phấn đấu, tốt nhất sử dụng khép kín phân bón chuyên dùng cho lúa (loại chuyên bón lót “Lúa 1” khoảng 15-20kg/ sào và chuyên bón thúc lúa 2 khoảng 0-15kg/sào), không bón thêm phân đơn; nên bón sớm phân chuyên thúc cho lúa đẻ sớm, không bón phân muộn, không bón rải làm nhiều lần.

Sử dụng phân bón chuyên dùng cho cây lúa, cân đối loại chuyên bón lót và chuyên bón thúc, thực hiện “lót sâu, thúc sớm”, không bón lai rai; kết hợp với chế độ nước hợp lý sẽ giúp lúa gieo sạ vụ mùa phát triển cân đối, khỏe mạnh, màu sắc lá không xanh đen, ít sâu bệnh hại, lúa đứng cây, ít đổ ngã, bộ lá lúa vàng tươi đến khi bông lúa chín hoàn toàn. Đó là những yếu tố cơ bản để đạt năng suất cao, mang lại hiệu quả kinh tế cao cho nhà nông./.

Trọng Hòa – Nam Phong